THỐNG NHẤT QUY TRÌNH PHÂN LOẠI HÀNG HÓA ĐỂ CHỐNG THẤT THU

(HQ Online)- Nâng cao hiệu quả quản lý khai báo mã số hàng hóa song song với việc hoàn thiện chính sách về mặt hàng là công việc quan trọng mà ngành Hải quan đã và đang triển khai để phòng ngừa và chống thất thu thuế qua khai báo phân loại hàng hóa. Hoạt động này không chỉ đảm bảo chống thất thu cho NSNN mà còn giúp tạo điều kiện lành mạnh hoá môi trường cạnh tranh trên thị trường nội địa…

Hoạt động nghiệp vụ tại Chi cục Hải quan Thái Nguyên (Cục Hải quan Bắc Ninh). Ảnh: T.Trang.
 
Một trong những công tác trong tâm trong công tác phân loại là Cục Thuế XNK đang hoàn thiện Thông tư của Bộ Tài chính ban hành Danh mục hàng hóa XK, NK Việt Nam (thay thế thông tư 103/2015/TT-BTC ngày 1-7-2015). Đây là nhiệm vụ quan trọng trong công tác phân loại hàng hóa để Danh mục hàng hóa XNK Việt Nam theo Danh mục AHTN 2017, Biểu thuế MFN và các Biểu thuế FTA, các danh mục quản lý chuyên ngành theo AHTN 2017 đảm bảo đồng bộ và hợp nhất, hỗ trợ cho công tác phân loại hàng hóa được thuận lợi và chính xác.
 

Phân loại hàng hóa XK, NK là việc căn cứ vào tên gọi, mô tả về tính chất, thành phần, cấu tạo, công dụng, quy cách đóng gói và các thuộc tính khác của hàng hóa để xác định, sắp xếp hàng hóa vào một mã số nhất định theo Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa, Danh mục hàng hóa XK, NK Việt Nam và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Từ các mã số hàng hóa này sẽ tương ứng với mức thuế XK, NK theo Biểu thuế XK, NK. Quy trình phân loại hàng hóa này đã thống nhất được các quan điểm phân loại hàng hóa khác nhau giữa các đơn vị trước khi ban hành thông báo kết quả phân loại hàng hóa. Qua đó, hình thành được hệ thống phần mềm MHs lưu giữ kết quả PTPL trong toàn ngành, hải quan địa phương có thể dễ dàng tra cứu các kết quả phân loại hàng hóa.Cùng với đó, quy định về xác định trước mã số hàng hóa, xuất xứ của hàng hóa được Tổng cục Hải quan triển khai thời gian qua cũng đã giúp DN chủ động tính toán trước hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ, đồng thời giúp cơ quan Hải quan tăng hiệu quả quản lý. Hầu hết hồ sơ gửi đến đều được Cục Thuế XNK giải quyết trong thời hạn 30 ngày, những trường hợp hàng hóa phức tạp cũng được giải quyết trong thời hạn tối đa 60 ngày.

Việc thực hiện quy định xác định trước mã số hàng hóa mang lại lợi ích cho cả Hải quan và DN. Cơ quan Hải quan nâng cao năng suất và hiệu quả quản lý nhờ đẩy nhanh tốc độ thông quan hàng hóa, phân bổ nguồn lực hợp lý vào các giai đoạn trước, trong và sau thông quan. Trong khi đó, DN sẽ căn cứ vào những thông tin được cung cấp trước có tính ràng buộc pháp lý để nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch kinh doanh và tính toán lợi nhuận. Điều này làm tăng độ chắc chắn và có thể dự doán được cho các DN khi tham gia các giao dịch thương mại quốc tế… Những thông báo phân loại hàng hóa cũng được cập nhật trên Website của Tổng cục Hải quan để giúp DN thuận tiện hơn trong việc tham khảo áp dụng vào việc phân loại hàng hóa của chính DN.

Tuy nhiên, thực tế thời gian qua vẫn có tình trạng DN khai sai mã số hàng hóa để hưởng mức thuế thấp hơn hoặc cũng có tình trạng tại 1 đơn vị hải quan vẫn chấp nhận việc DN phân loại hàng hóa vào những mã số hàng khác với những mặt hàng có cùng đặc tính, chủng loại.

 
Danh mục quản lý rủi ro về phân loại được Tổng cục Hải quan xây dựng và triển khai trong toàn ngành, trong đó bao gồm khoảng 380 mặt hàng cấp độ 8 chữ số và 7 nhóm hàng cấp độ 6 chữ số bao gồm cả hàng NK và XK. Đây là tài liệu quan trọng, là công cụ quản lý trong công tác phân loại hàng hóa của cơ quan Hải quan trong cả khâu trong và sau thông quan.
 

Lý giải thực này, ông Trịnh Mạc Linh- Phó Cục trưởng Cục Thuế XNK-Tổng cục Hải quan phân tích, hiện nay hàng hóa XNK ngày càng đa dạng về chủng loại, công nghệ, đặc biệt là sự xuất hiện của những mặt hàng đa chức năng, đa công dụng. Vì vậy, công tác phân loại của cơ quan Hải quan gặp không ít khó khăn, bởi nhận thức về bản chất hàng hóa có nhiều ý kiến khác nhau, hơn thế nữa nhân lực của cơ quan Hải quan làm công tác phân loại hàng hóa còn hạn chế.Cũng trong thời gian qua, đã có những mặt hàng NK phức tạp, có nhiều ý kiến trái chiều như các mặt hàng: Đồ uống không có ga, đồ uống có chứa collagen; kem bôi sẹo; trứng artemia- làm thức ăn chăn nuôi; thiết bị kết nối dùng cho internet; máy điều hòa không khí âm trần; dụng cụ mài lưỡi dao; đá cẩm thạch… Để phân loại đúng bản chất mặt hàng này, Cục Thuế XNK đã nhiều lần phải xin ý kiến cơ quan chuyên môn và phải tổ chức họp bàn. Có những mặt hàng phức tạp, Tổng cục Hải quan còn phải tổ chức đối thoại với DN để  vừa lắng nghe vừa đưa ra được hướng dẫn trong việc phân loại hàng hóa.

Theo ông Trịnh Mạc Linh, để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác phân loại hàng hóa, áp dụng mức thuế, đảm bảo thực hiện phân loại hàng hóa thống nhất trên phạm vi toàn quốc, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp khai báo và áp mã số, mức thuế không thống nhất… là mục tiêu mà ngành Hải quan sẽ triển khai trong công tác phân loại, xác định mức thuế trong năm 2017.

Thực hiện mục tiêu này, Cục Thuế XNK đã tổ chức rà soát trên hệ thống thông tin dữ liệu liên quan để phát hiện ngăn chặn, xử lý kịp thời việc thực hiện không đúng quy định về phân loại, áp dụng mức thuế theo các biểu thuế hiện hành; kiểm tra thực tế về công tác phân loại hàng hóa tại một số đơn vị hải quan địa phương… Cục đã ban hành công văn hướng dẫn kiểm tra phân loại hàng hóa để thống nhất thực hiện trong toàn ngành, trong đó hướng dẫn chi tiết từng bước kiểm tra trong tất cả các khâu thông quan và sau thông quan.

Bên cạnh đó, Cục sẽ tập trung xử lý vướng mắc có liên quan công tác phân loại, mức thuế của hải quan địa phương, DN kịp thời, theo đúng quy định. Đồng thời, chủ động bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho CBCC để nâng cao hiệu quả công tác, đảm bảo thực hiện công tác phân loại hàng hóa đúng quy định.

Cùng với đó, phối hợp với Cục CNTT thực hiện, vận hành, khai thác có hiệu quả Hệ thống MHs, phối hợp nâng cấp Hệ thống phù hợp với văn bản chính sách mới ban hành cũng như thực tế khai thác, sử dụng. Song song với đó là thường xuyên rà soát, sửa đổi, cập nhật Danh mục hàng hóa XNK rủi ro về phân loại. 

Thu Trang

Nhận đất Quốc phòng:Sân bay Tân Sơn Nhất mở rộng xong trước Tết 2018

Bộ Quốc phòng và Bộ GTVT ký kết biên bản bàn giao phần đất sân đỗ quân sự tại sân bay Tân Sơn Nhất…

 
1

Gần 20ha đất được Bộ Quốc phòng bàn giao để mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất – Ảnh: Phan Tư

Sáng 21/2, Bộ Quốc phòng và Bộ GTVT ký kết biên bản bàn giao phần đất sân đỗ quân sự tại CHK quốc tế Tân Sơn Nhất cho Bộ GTVT để triển khai đầu tư nâng cấp, xây dựng đường lăn, sân đỗ tàu bay. Đại diện hai Bộ tham dự ký kết biên bản bàn giao có Thượng tướng Trần Đơn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Đình Thọ.

Giao gần 20ha đất quốc phòng để làm sân đỗ

Trước khi ký kết, lãnh đạo Bộ GTVT và Bộ Quốc phòng trực tiếp khảo sát lại các mốc giới phân định khu đất. Đại diện Cục Hàng không Việt Nam và Cục Phòng không – Không quân sau đó ký biên bản ghi nhận các mốc giới. Khu đất Bộ Quốc phòng giao cho Bộ GTVT được xác định bởi 11 mốc. Phía Bắc giáp với đường lăn song song W11; Phía Nam giáp khu đất Công ty Hàng không lưỡng dụng Ngôi Sao Việt, khu doanh trại Lữ đoàn 918, nhà xưởng hangar (nhà chứa máy bay) 917/Sư đoàn 370. Phía Đông giáp khu 7,6ha mà Bộ Quốc phòng đã bàn giao để làm sân đỗ cho tàu bay dân dụng. Phía Tây giáp Sư đoàn 370 và Công ty Hàng không lưỡng dụng Ngôi Sao Việt. Tổng diện tích được kiểm đếm chính xác là 19,79ha.

Trong biên bản ghi rõ mục đích sử dụng đất là Bộ Quốc phòng tạm bàn giao mặt bằng khu đất này cho Bộ GTVT để đầu tư, nâng cấp, mở rộng sân đỗ tàu bay và hệ thống đường lăn. Khi có tình huống phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, diện tích này phải được ưu tiên cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Bộ GTVT chỉ đạo thực hiện đầu tư xây dựng công trình và quản lý sử dụng đất đúng mục đích, không được chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng, cho, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Sau khi CHK quốc tế Long Thànhhoàn thành, Bộ GTVT bàn giao lại toàn bộ diện tích mặt bằng khu đất trên để Bộ Quốc phòng sử dụng cho nhiệm vụ quốc phòng mà không phải bồi thường giá trị tài sản trên đất. Trường hợp có nhu cầu sử dụng tiếp, Bộ GTVT có văn bản gửi Bộ Quốc phòng xem xét, quyết định.

2
Thượng tướng Trần Đơn, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cùng Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Đình Thọ xem sơ đồ thực địa khu vực gần 20ha mà Bộ Quốc phòng bàn giao cho Bộ GTVT để xây dựng đường lăn, sân đỗ tàu bay – Ảnh: Phan Tư

Hoàn thành trước Tết 2018

Khu vực đất quốc phòng hiện hữu đang là khu sân đỗ cho tàu bay quân sự, hiện có 7 tàu bay quân sự đang đỗ ở đây. Hệ thống sân đỗ, đường lăn này đã được đầu tư từ lâu, chỉ đáp ứng cho những tàu bay nhỏ đỗ. Vì vậy, sau khi bàn giao, Cục Hàng không VN sẽ tiến hành nâng cấp toàn bộ khu đất này để đáp ứng điều kiện kỹ thuật cho những tàu bay dân dụng loại lớn có thể đỗ được.

Về giao thông kết nối bên ngoài sân bay, ông Bùi Xuân Cường, Giám đốc Sở GTVT TP HCM cho biết, đã có kế hoạch mở rộng đường Hoàng Hoa Thám (Q. Tân Bình) ra 25m. Đồng thời, thực hiện các giải pháp đồng bộ như: Xây dựng cầu vượt trên đường Trường Sơn, cải tạo đường Cộng Hòa đoạn gần khu vực Lăng Cha Cả… để đảm bảo kết nối giao thông vào sân bay, kể cả việc kết nối với nhà ga lưỡng dụng sau này.

Ông Lại Xuân Thanh, Cục trưởng Cục Hàng không VN cho biết, với diện tích vừa được bàn giao, sau khi nâng cấp sẽ xây dựng được khoảng từ 30 – 35 vị trí đỗ tàu bay. Trong đó, sẽ dành 6 vị trí cho tàu bay quân sự làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc phòng. “Hiện, Tân Sơn Nhất có 50 vị trí đỗ tàu bay, sau khi hoàn thành nâng cấp khu vực này có thể đáp ứng nhu cầu đỗ tàu bay khi Tân Sơn Nhất nâng công suất khai thác khoảng trên 40 triệu hành khách/năm”, ông Thanh nói và cho biết, một trong những điểm tắc của Tân Sơn Nhất là năng lực thông qua của khu bay. Tàu bay sau khi hạ cánh thoát ra khỏi đường cất/hạ cánh chậm dẫn đến việc ùn tắc trên trời. Tại khu vực gần 20ha được bàn giao, sau khi cải tạo, ngoài việc thêm các vị trí sân đỗ còn có thêm các đường lăn tạo điều kiện giải thoát nhanh tàu bay trên khu bay, từ đó giải quyết nhanh năng lực của vùng trời sân bay Tân Sơn Nhất.

Trả lời câu hỏi của PV Báo Giao thông liệu với một khu vực diện tích lớn, quá trình thi công phức tạp bao giờ thì nâng cấp xong? Ông Thanh cho biết, sau khi tiếp nhận khu đất này, Bộ GTVT giao Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam bắt tay lập dự án triển khai đầu tư cải tạo, nâng cấp. Về phương án thi công, đơn vị tư vấn là Công ty ADCC cũng tính toán, đưa ra các giải pháp. “Tinh thần là sẽ thực hiện cuốn chiếu theo từng khu vực nhỏ. Khu vực nào hoàn thành đưa vào khai thác luôn, nhưng tổng thể, phấn đấu hoàn thành và đưa và khai thác toàn bộ trước Tết 2018”, ông Thanh nói.

Đối với các hạng mục đầu tư nhà ga lưỡng dụng và đường kết nối vào nhà ga, ông Thanh cho biết, hạng mục này đang nghiên cứu và sẽ có quyết định sau khi Chính phủ thông qua điều chỉnh quy hoạch tổng thể sân bay Tân Sơn Nhất sắp tới.

Phan Tư

Nguồn: http://www.baogiaothong.vn/

Thống nhất thực hiện thu lệ phí hải quan

(HQ Online)- Trước vướng mắc của hải quan địa phương về vấn đề thu, nộp phí và lệ phí hải quan, Tổng cục Hải quan vừa có công văn hướng dẫn cục hải quan các tỉnh, thành phố thống nhất thực hiện mức thu, chế độ thu, nộp phí hải quan, lệ phí hàng hóa, phương tiện quá quá cảnh theo Thông tư 274/2016/TT-BTC.

Người nộp phí, lệ phí có thể nộp từng lần hoặc nộp theo tháng theo quy định như trước đây. Ảnh: T.Trang.

Mức thu và đối tượng áp dụng

Tờ khai XNK tại chỗ thuộc đối tượng được miễn phí theo quy định cũ, từ 1/1/2017 sẽ phải nộp phí hải quan là 20.000 đồng/tờ khai.

Đối với đơn yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và phí đối với hàng, phương tiện quá cảnh, đồng thời lệ phí quá cảnh đối với phương tiện vận tải sẽ được áp dụng theo đầu phương tiện vận tải (quy định cũ áp dụng theo tờ khai), với mức cụ thể như sau:

Phí hải quan đăng ký tờ khai 20.000 đồng/tờ khai

Phí hải quan kiểm tra giám sát, hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: 200.000 đồng/01 đơn.

Lệ phí quá cảnh đối với hàng hóa: 200.000 đồng/tờ khai.

Lệ phí đối với phương tiện quá cảnh đường bộ (gồm: ô tô, đầu kéo, máy kéo): 200.000 đồng/phương tiện.

Lệ phí đối với phương tiện quá cảnh đường thủy (gồm:tàu, ca nô, đầu kéo, xà lan): 500.000 đồng/phương tiện.

Phí hải quan 50USD/chuyến bay đối với chuyến bay của nước ngoài đến các cảng hàng không Việt Nam.

Các trường hợp miễn thu phí, lệ phí

Miễn thu phí hải quan, lệ phí hàng hóa, phương tiện quá cảnh trong các trường hợp sau đây:

Hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; quà tặng cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cá nhân (được miễn thuế trong định mức theo quy định); quà biếu, quà tặng vì mục đích nhân đạo, từ thiện; đồ dùng của tổ chức, cá nhân nước ngoài theo quy chế miễn trừ ngoại giao; hành lý mang theo người; hàng bưu phẩm, bưu kiện được miễn thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật hiện hành.

Hàng hóa XK, NK gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh có trị giá từ 1.000.000 đồng Việt Nam trở xuống hoặc có số tiền thuế (các khoản thuế theo quy định) phải nộp dưới 100.000 đồng Việt Nam.

Hàng hóa XK, NK có trị giá hải quan dưới 500.000 đồng hoặc có tổng số tiền thuế (các khoản thuế theo quy định) phải nộp dưới mức 50.000 đồng cho một lần XK, NK.

Hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới trong định mức theo quy định.

Phương tiện vận tải thường xuyên qua lại biên giới được quản lý theo phương thức mở sổ theo dõi, không quản lý bằng tờ khai.

Hàng hóa, phương tiện quá cảnh được miễn theo quy định tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc cam kết của Chính phủ Việt Nam.

Thu phí, lệ phí hải quan

Cơ quan Hải quan thực hiện thu phí, lệ phí theo quy định tại Thông tư 274/2016/TT-BTC.

Đối với phí hải quan kiểm tra, giám sát hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XK, NK có yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thì chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ nộp đơn đề nghị cơ quan Hải quan áp dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XK, NK có dâu hiệu vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và nộp phí hải quan tại đơn vị nộp đơn.

Đơn vị được ủy nhiệm thu lệ phí hải quan thực hiện theo quy định tại Điều 6 và Điều 7 Thông tư 274/2016/TT-BTC. Các cảng vụ hàng không Việt Nam thực hiện kê khai, thu, nộp phí hải quan theo quy định tại Thông tư 194/2016/TT-BTC.

Cách thức nộp phí

Người nộp phí, lệ phí có thể nộp từng lần hoặc nộp theo tháng theo quy định như trước đây. Tuy nhiên, muốn nộp theo tháng người nộp phí phải đăng ký với tổ chức thu phí về việc nộp phí theo tháng.

Người nộp phí, lệ phí thực hiện nộp phí, lệ phí tiền mặt trực tiếp chơ cơ quan hải quan hoặc chuyển khoản vào tài khoản tiền gửi của cơ quan Hải quan mở tại Kho bạc nhà nước hoặc tài khoản của tổ chức được ủy nhiệm thu tại ngân hàng thương mại.

Các trường hợp chỉ thu phí 1 lần bao gồm: Hàng tạm nhập tái, xuất hoặc tạm xuất, tái nhập chỉ thu phí, lệ phí chỉ một lần khi làm thủ tục NK hoặc XK; Hàng gửi kho ngoại quan chỉ thu phí làm thủ tục Hải quan một lần khi làm thủ tục nhập kho, khi xuất kho không thu. Đối với hàng hóa, phương tiện vận tải quá cảnh chỉ thực hiện thu lệ phí tờ khai một lần khi làm thủ tục nhập cảnh tại cửa khẩu nhập, không thu lệ phí khi làm thủ tục xuất cảnh.

Thu Trang

NHỜ HẢI QUAN HƯỚNG DẪN, DOANH NGHIỆP TRÁNH ĐƯỢC SAI SÓT

(HQ Online)-Ngày 20/12/2017, tại Hội nghị đối thoại bàn tròn giữa doanh nghiệp Nhật Bản với chính chính quyền TP.HCM, lãnh đạo Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản tại TP.HCM cho rằng cơ quan Hải quan đã hướng dẫn, giải đáp tốt các kiến nghị của hiệp hội, giúp các doanh nghiệp tránh được sai sót.

Hướng dẫn, Đối thoại, Tp HCM, Nhật Bản
Quang cảnh hội nghị đối thoại
Đối với các vướng mắc về lĩnh vực Hải quan, Cục Hải quan TP.HCM đã hướng dẫn, giải đáp ngay và được doanh nghiệp Nhật Bản hài lòng. Trong đó, Cục Hải quan TP.HCM ghi nhận kiến nghị của Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản để báo cáo Tổng cục Hải quan khắc phục tình trạng không thống nhất về mã HS khi thông quan hàng hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động XNK. 

Đối với kiến nghị về việc miễn thuế nhập khẩu, thuế VAT đối với hàng nhập khẩu thuộc dự án ODA, Cục Hải quan TP.HCM đã giải thích, hướng dẫn, đồng thời cung cấp các văn bản pháp lý liên quan trường hợp dự án thực hiện bằng vốn vay ODA thuộc các đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư.

Các doanh nghiệp Nhật Bản cho rằng, trong thời gian qua, nhờ cơ quan Hải quan xử lý tốt kiến nghị cung cấp danh mục cấm nhập khẩu đã giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt trong khai báo hải quan, giảm các trường hợp bị xử lý không hợp lý. Về lệ phí không chính thức khi thông quan, doanh nghiệp Nhật Bản nhận thấy đã được cải thiện rất nhiều. 

Lãnh đạo Cục Hải quan TP.HCM khẳng định khi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có văn bản gửi, cơ quan Hải quan đều trả lời bằng văn bản trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản.

Tại hội nghị đối thoại, ông Trần Vĩnh Tuyến, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM cho biết, Nhật Bản hiện là thị trường XNK lớn thứ ba của TP.HCM và là nhà đầu tư lớn thứ sáu tại thành phố với 1.110 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đạt 3,95 tỷ USD. Ông tin tưởng với các hoạt động và nỗ lực cải tiến môi trường đầu tư mà thành phố đã, đang và sẽ thực hiện, quan hệ kinh tế TP.HCM – Nhật Bản sẽ được tăng cường và số lượng các nhà đầu tư Nhật Bản mở rộng sản xuất, hoạt động thành công tại thành phố sẽ nhiều hơn nữa.

Xung quanh hội nghị bàn tròn có 50 câu hỏi iên quan của 4 nhóm vấn đề gồm: 25 nội dung về lĩnh vực môi trường – đời sống, 12 nội dung về lĩnh vực pháp luật lao động, 6 nội dung về lĩnh vực thuế và 7 nội dung về lĩnh vực hải quan đã được ghi nhận và giải đáp.

Lê Thu

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn

Bao Cong thuong

BỘ CÔNG THƯƠNG SẼ HỖ TRỢ LIÊN KẾT GIỮA DOANH NGHIỆP LOGISTICS VỚI CÁC CHỦ HÀNG

Đó là khẳng định của Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh tại Diễn đàn Logistics Việt Nam 2017 tổ chức sáng 15/12 ở Hà Nội.

Những nút thắt cần gỡ

Phát biểu khai mạc diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, Diễn đàn Logistics Việt Nam năm 2017 diễn ra trong bối cảnh đặc biệt, khi Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 200 ngày 14/2/2017 phê duyệt Kế hoạch Hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam; đòi hỏi các nhà quản lý, hiệp hội, doanh nghiệp (DN) cùng trao đổi, tìm giải pháp phát triển ngành dịch vụ quan trọng này.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh phát biểu khai mạc diễn đàn

Tại diễn đàn, Hiệp hội doanh nghiệp (DN) logistics Việt Nam thông tin, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), ngành dịch vụ logistics Việt Nam đang phát triển mạnh với tốc độ từ 15-16%/năm. Theo chỉ số hoạt động LPI của Ngân hàng Thế giới, năm 2014, ngành dịch vụ logistics Việt Nam xếp hạng 53 và năm 2016 xếp hạng 64/160 nước, đứng thứ 4 trong các nước ASEAN, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Ngành dịch vụ logistics đang chiếm khoảng 3% GDP cả nước. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 3.000 DN hoạt động trong ngành dịch vụ này, trong đó khoảng 1.300 DN (chủ yếu là DN vừa và nhỏ) tham gia tích cực ở thị trường trong nước và nước ngoài.

Diễn đàn thu hút đông đảo cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội, doanh nghiệp…

Tuy nhiên, bên cạnh tốc độ phát triển tương đối mạnh mẽ, điểm hạn chế của ngành logistics Việt Nam hiện nay là chi phí còn ở mức cao. Phân tích của TS. Nguyễn Minh Phong cho thấy, chi phí cho dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện chiếm gần 25% GDP, trong khi chi phí này ở Mỹ chiếm 9,5% GDP, Nhật Bản là 11% GDP, Hàn Quốc 16%, Trung Quốc 21,6%.

Còn theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chi phí vận chuyển cho một container hàng từ cảng Hải Phòng về Hà Nội hay ở chiều ngược lại (khoảng 100 km) đắt gấp 3 lần so với chi phí vận chuyển một container hàng từ Trung Quốc và Hàn Quốc về Việt Nam. Nguyên nhân của mức chi phí này là do thời gian kéo dài, DN logistics và DN XNK chưa có sự gắn bó đầy đủ do khó khăn về thiếu hạ tầng kết nối các khu vực cảng với khu vực tập trung hàng hóa; thiếu các trung tâm giao nhận hàng hóa và dịch vụ chuyên dụng. Chưa kể, DN XNK vẫn chủ yếu chuộng phương thức “mua CIF (giá tại cửa khẩu của bên nhập), bán FOB (giá tại cửa khẩu của bên xuất)”, làm giảm cầu trên thị trường và đẩy thị trường sang bạn hàng ngoại.

Về phía DN logistics, ông Đỗ Xuân Quang – Tổng giám đốc Công ty CP Vietjet Air Cargo – cho hay, phát triển ngành dịch vụ logistics đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao, tuy nhiên đây lại là khó khăn lớn nhất của DN. “Hiện nay, 70 – 80% phi công của công ty phải tuyển dụng từ nước ngoài” – ông Quang chia sẻ.

Phát triển ngành dịch vụ logistics bền vững

Công bố Báo cáo Logistics Việt Nam 2017

Ý kiến của hầu hết các DN tại diễn đàn cho thấy, để phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam một cách bền vững cần chú trọng vào đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh cải cách hành chính (CCHC). Ông Đỗ Xuân Quang kiến nghị, song song với mục tiêu hàng đầu là đầu tư cho nguồn nhân lực, nên xây dựng các trung tâm logistics hàng không tại các khu vực có sân bay để thực hiện các dịch vụ nhanh chóng và trọn gói. Bên cạnh đó, xây dựng các cảng hàng không nối dài tại các DN với đầy đủ các dịch vụ như kiểm tra hàng hóa, thủ tục hải quan… nhằm giảm thời gian chờ đợi tại sân bay. CCHC, đặc biệt trong lĩnh vực hải quan, để giảm thời gian, chi phí cho DN.

Bà Nguyễn Thị Thùy Dương – Giám đốc Công ty TNHH Minh Nhật – “hiến kế”, để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển triển dịch vụ logistics, cần đặc biệt quan tâm đến 3 nhóm giải pháp: Phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng và thể chế chính sách.

Ký kết hợp tác giữa các DN logistics với nhau, giữa DN logistics với DN XNK và các cơ sở đào tạo

Năm nay, Diễn đàn Logistics 2017 đặt ra ưu tiên các hợp tác về đào tạo nguồn nhân lực và triển khai các chính sách phát triển bền vững về nguồn nhân lực, để đảm bảo nhân sự của ngành logistics Việt Nam sẽ theo kịp mặt bằng của khu vực, có thể cạnh tranh sòng phẳng với các DN logistics trên lãnh thổ Việt Nam. Đối với thể chế chính sách, cần phải đồng bộ hóa cơ chế để có những chi phí tiết kiệm nhất trong mặt hỗ trợ XNK. Hiện tại, các quy định tương đối chồng chéo; các cơ quan bộ, ngành chưa có kênh thông tin chung cho từng đối tượng XNK hàng hóa cụ thể, dẫn đến chi phí bị tăng cao. Về cơ sở hạ tầng đã có sự cải thiện đáng kể, nhưng vấn đề kẹt cảng, kẹt trên cao tốc và các khu công nghiệp khu chế xuất tương đối phổ biến. Nếu không cải thiện được thì chi phí logistics của Việt Nam vẫn ở vị trí cao so với khu vực.

Ông Ousmane Dione – Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thế giới – chia sẻ thêm, dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể về cải thiện cơ sở hạ tầng và dịch vụ logistics, nhưng Việt Nam còn nhiều việc phải làm để nâng cao hiệu quả logistics. Theo đó, Chính phủ cũng như khối kinh tế tư nhân cần có lộ trình rõ ràng về cải cách. Trong nhiều lĩnh vực sẽ có những nhóm giải pháp để bổ sung cho việc tăng cường đáng kể đầu tư vào hạ tầng cơ sở như: Tăng cường kết nối; tăng cường tạo thuận lợi thương mại; phải có sự phối hợp, cộng tác liên ngành với DN; theo dõi và đo lường được tiến độ cải cách. “Làm tốt những điều này sẽ giúp Việt Nam tăng năng suất để đạt được các mục tiêu phát triển đầy tham vọng của mình” – ông Ousmane Dione đề xuất.

Để việc quản lý nhà nước “kiến tạo” cho ngành logistics phát triển, Hiệp hội Logistics Việt Nam đề nghị Thủ tướng Chính phủ cần có một cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về lĩnh vực này, có thể là một Cục/Vụ tại một Bộ. Vì logistics có mục đích là gia tăng giá trị thương mại, nên tạo điều kiện cho đại diện của DN tham gia vào quá trình quản lý hoạt động logistics. Qua đó sẽ tăng cường việc quản lý ngành dịch vụ logistics, góp phần tạo thuận lợi và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và thương mại.

Các cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức, hiệp hội, DN và chuyên gia chia sẻ kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics
Các cơ quan quản lý Nhà nước, tổ chức, hiệp hội, DN và chuyên gia chia sẻ kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics

Cam kết dành nhiều hỗ trợ mạnh mẽ cho DN, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh khẳng định, Bộ Công Thương sẽ có những biện pháp đôn đốc, phối hợp với các đơn vị và bộ ngành triển khai nhiều nhóm giải pháp. Cụ thể, hỗ trợ liên kết giữa DN logistics với các DN chủ hàng và trường học để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; gắn kết nguồn cung để có sự phát triển mạnh mẽ hơn, cạnh tranh hiệu quả hơn; nỗ lực cắt giảm các chi phí không cần thiết, gây đội chi phí và giảm cạnh tranh cho DN.

“Về dài hạn, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các Bộ, ngành để báo cáo Chính phủ xây dựng các chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển ngành logistics, gắn chặt với bối cảnh hội nhập sâu rộng trong thời kỳ mới” – Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh. 

Tại diễn đàn, Bộ Công Thương đã công bố Báo cáo Logistics Việt Nam 2017 – tài liệu chính thống về phát triển dịch vụ logistics Việt Nam và tổ chức ký kết hợp tác giữa các DN logistics với nhau, giữa DN logistics với DN XNK và các cơ sở đào tạo.

Lan – Tâm – Dũng

Nguồn: http://baocongthuong.com.vn

NGÀNH HẢI QUAN TẬP HUẤN VỀ BIỂU THUẾ MỚI

(HQ Online)- Để chuẩn bị cho việc thực hiện Nghị định 125/2017/NĐ-CP và các Nghị định ban hành các Biểu thuế FTA, ngày 15/12/2017, Tổng cục Hải quan đã tổ chức Hội nghị tập huấn giới thiệu những thay đổi của các biểu thuế cho đại diện các đầu mối nghiệp vụ, chi cục hải quan cửa khẩu của hải quan  các tỉnh, thành phố và các đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan.

Quang cảnh buổi tập huấn.

Từ ngày 1/1/2018, hàng loạt các Biểu thuế XNK sửa đổi, bổ sung sẽ có hiệu lực với sự thay đổi thuế suất của hàng nghìn mặt hàng XNK. Trực tiếp phân tích những điểm mới của Nghị định 125/2017/NĐ-CP và Quyết định 45/2017/QĐ-TTg,  bà Nguyễn Thị Thanh Hằng – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính cho biết, việc ban hành Nghị định số 125/2017/NĐ-CP là nhằm thống nhất với danh mục hàng hóa XK, NK Việt Nam ban hành kèm theo Thông tư số 65; giải quyết các kiến nghị của DN phát sinh trong thời gian từ 1/9/2016 đến nay; hạn chế tác động của việc xoá bỏ thuế NK theo cam kết trong Hiệp định thương mại tự do ASEAN. Với sự ra đời của Nghị định này, thuế suất thuế XNK của nhiều mặt hàng như ô tô cũ, linh kiện ô tô, thủy hải sản, thực phẩm tươi sống… sẽ có nhiều thay đổi.

Phân tích về  Quyết định số 45/2017/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Quyết định 36/2016/QĐ-TTg quy định việc áp dụng thuế suất thông thường đối với hàng hóa NK, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế cho biết: Hàng hóa NK không có tên trong Danh mục của Biểu thuế suất NK thông thường tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định này và không thuộc trường hợp hàng hóa nhập khẩu áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc biệt theo quy định tại các điểm a, b khoản 3 Điều 5 Luật thuế XK, thuế NK ngày 6/4/2016 thì áp dụng mức thuế suất thông thường bằng 150% mức thuế suất NK ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại Phụ lục II Nghị định số 125.

Giới thiệu lộ trình cắt giảm thuế quan tại Nghị định Biểu thuế FTA cho giai đoạn 2018- 2022, ông Phạm Tuấn Anh – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính cho biết, hiện Bộ Tài chính cũng đang dự thảo 10 nghị định biểu thuế NK ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện các FTA giữa: ASEAN, ASEAN – Nhật Bản, ASEAN – Ấn Độ, ASEAN – Australia – New Zealand, ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN – Trung Quốc, Việt Nam – Hàn Quốc, Việt Nam – Nhật Bản, Việt Nam – Chi lê, Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu. Việc dự thảo các nghị định mới này là để thực hiện cam kết trong nội khối ASEAN. Trong đó, thuế NK của nhiều mặt hàng sẽ giảm mạnh, thậm chí về 0% như: ô tô nguyên chiếc, xăng dầu; thịt heo, thịt bò tươi; phụ tùng linh kiện; máy tính; sản phẩm điện tử… 

Cũng tại hội nghị tập huấn, hải quan các địa phương đã trao đổi với các đơn vị soạn thảo các biểu thuế về điều kiện và thủ tục áp dụng các chương trình ưu đãi thuế, thời điểm áp dụng ưu đãi thuế cũng như chia sẽ kinh nghiệm về nội dung các biểu thuế FTA…

Các thắc mắc của hải quan địa phương tại Hội nghị tập huấn xoanh quanh các nội dung: các điều kiện NK linh kiện NK lắp ráp ô tô, phạm vi điều chỉnh của Nghị định 125/2017/NĐ-CP với nhóm hàng 8702 và 8703; thời điểm áp dụng các hạn ngạch thuế quan….

Được biết, sau Hội nghị tập huấn này, các CBCC dự hội nghị sẽ về tập huấn  cho các CBCC tại đơn vị mình về những điểm mới cũng như những thay đổi của các biểu thuế để áp dụng biểu thuế mới từ ngày 1/1/2018. 

Hải Nam

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn

MÁY MÓC, THIẾT BỊ VÀO NHÓM HÀNG XUẤT KHẨU 10 TỶ USD

(HQ Online)- Đến nay, có 5 nhóm hàng đạt trị giá kim ngạch từ 10 tỷ USD, tăng thêm một nhóm so với cùng kỳ 2016.
Cơ cấu tỉ lệ kim ngạch 5 nhóm hàng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tính đến 15/11. Biểu đồ: T.Bình.

Theo Tổng cục Hải quan, đến 15/11 có thêm nhóm hàng mới góp mặt là máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng với trị giá kim ngạch đạt xấp xỉ 11 tỷ USD. Trị giá này tăng thêm 2,444 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2016 (tương đương tăng thêm 28,56%) và giúp nhóm hàng này lần đầu tiên góp mặt vào nhóm xuất khẩu từ 10 tỷ USD trở lên tính đến 15/11.

Cũng theo Tổng cục Hải quan, xét về thị trường (tính hết tháng 10), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng được xuất khẩu chủ yếu đến các thị trường: Hoa kỳ với 2,01 tỷ USD, tăng 16,8%; Nhật Bản với 1,41 tỷ USD, tăng 10%; Liên minh châu Âu- EU (với 28 thị trường) với 1,49 tỷ USD, tăng 43,7% so với cùng kỳ năm trước…

Ngoài máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng, đến 15/11, còn 4 nhóm hàng đạt trị giá kim ngạch trên 10 tỷ USD là: Điện thoại và linh kiện đạt 38,953 tỷ USD; dệt may đạt 22,436 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 22,352 tỷ USD; giày dép đạt 12,46 tỷ USD.

Một tín hiệu tích cực là cả 5 nhóm hàng “10 tỷ USD” đều duy trì được sự tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2016 và đóng góp quan trọng vào kết quả xuất khẩu chung của cả nước. Trong đó 2 nhóm hàng liên quan đến lĩnh vực điện tử là điện thoại và máy tính có mức tăng trưởng đến 2 con số với tốc độ lần lượt là 30,38% và 38,6%.

Với tổng trị giá kim ngạch đạt 107,201 tỷ USD, 5 nhóm hàng trên chiếm đến 58,3% tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Thái Bình

GIÁ TĂNG GIÚP DẦU THÔ MANG VỀ THÊM GẦN 10.000 TỶ ĐỒNG

(HQ Online)- Dù sản lượng xuất khẩu giảm nhưng mức giá bình quân tăng mạnh giúp mặt hàng này mang về thêm hàng nghìn tỷ đồng.

Biểu đồ sản lượng, kim ngạch và mức giá bình quân ở 6 thị trường xuất khẩu chính. Biểu đồ: T.Bình.

Theo thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan, hết 15/11, cả nước xuất khẩu gần 5,93 triệu tấn dầu thô với tổng trị giá kim ngạch đạt hơn 2,443 tỷ USD.

Với kết quả trên, dù sản lượng giảm so với cùng kỳ 2016 (cùng kỳ hơn 6,523 triệu tấn) nhưng trị giá kim ngạch tăng thêm 221 triệu USD (cùng kỳ đạt 2,222 tỷ USD).

Đáng chú ý việc giảm sản lượng nhưng tăng về kim ngạch giúp trị giá bình quân mỗi tấn dầu thô xuất khẩu năm nay tăng thêm đến gần 21% so với cùng kỳ 2016.

Cụ thể, mức giá bình quân cùng kỳ năm ngoái chỉ là 340,65 USD/tấn, nhưng bước sang năm nay đã nhảy lên 412,09 USD/tấn. Như vậy, giá mỗi tấn dầu xuất khẩu năm nay cao hơn 71,44 USD/tấn (hay 1,62 triệu đồng/tấn).

Với sản lượng xuất khẩu gần 5,93 triệu tấn như đề cập ở trên, riêng số tiền tăng thêm từ giá bình quân tăng giúp cho mặt hàng này có thêm 423,59 triệu USD, tương đương hơn 9.600 tỷ đồng.

Xét về thị trường (cập nhật hết tháng 10 của Tổng cục Hải quan), những tháng vừa qua, dầu thô của nước ta được xuất đi các thị trường chính gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Australia, Hoa Kỳ, Hàn Quốc…

Trong đó, Trung Quốc đứng vị trí dẫn đầu với sản lượng gần 1,99 triệu tấn, tổng trị giá kim ngạch hơn 818 triệu USD, mức giá bình quân ở thị trường này là 411,65 USD/tấn.

Xét về mức giá xuất khẩu bình quân ở các thị trường chính, Australia là thị trường có mức giá cao nhất đạt 419,4 USD/tấn, trong khi mức giá thấp nhất là thị trường Singapore với 397,33 USD/tấn…

5 thị trường lớn kế tiếp Trung Quốc gồm: Thái Lan với sản lượng gần 807,7 nghìn tấn, trị giá kim ngạch đạt gần 335,9 triệu USD, mức giá bình quân 415,86 USD/tấn;

Nhật Bản với gần 777 nghìn tấn, tổng trị giá kim ngạch hơn 320 triệu USD, mức giá bình quân cũng xấp xỉ thị trường Trung Quốc (đạt 411,9 USD/tấn);

Singapore đạt hơn 587,5 nghìn tấn, tổng trị giá kim ngạch 233,45 triệu USD, mức giá bình quân là 397,33 USD/tấn;

Malaysia đạt gần 524,3 nghìn tấn, trị giá kim ngạch 209,67 triệu USD, mức giá bình quân 399,9 USD/tấn;

Australia đạt gần 483,5 nghìn tấn, trị giá kim ngạch đạt hơn 202,77 triệu USD, mức giá bình quân là 419,4 USD/tấn…

 

Thái Bình
Bao Cong thuong

XUẤT KHẨU TÔM TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu (XK) thủy sản Việt Nam (Vasep) vừa công bố, tính tới tháng 8/2017, giá trị XK tôm Việt Nam đạt 2,3 tỷ USD, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm 2016.

XK tôm tăng trưởng mạnh trong những tháng đầu năm

Trong cơ cấu sản phẩm tôm XK của Việt Nam, tôm chân trắng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 64,2%, đạt 1,2 tỷ USD; tôm sú chiếm 24,5%, đạt 605,9 triệu USD và tôm biển 11,2%, đạt khoảng gần 500 triệu USD. Top 10 thị trường nhập khẩu (NK) tôm chính của Việt Nam gồm EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Canada, Australia, ASEAN, Đài Loan và Thụy Sỹ. Ngoại trừ Mỹ, XK tôm sang tất cả các thị trường còn lại đều tăng trưởng tốt.

8 tháng đầu năm nay, EU vươn lên trở thành thị trường lớn nhất của con tôm Việt. Giá trị XK tôm sang EU trong giai đoạn này đạt 483,6 triệu USD; tăng 30% so với cùng kỳ năm 2016. Trong khối EU, XK sang 3 thị trường NK lớn nhất của tôm Việt Nam (Anh, Hà Lan, Bỉ) đều tăng trưởng ở mức 2 con số, lần lượt đạt 46,5%; 47,8% và 34,1%. Giá trị XK tôm Việt Nam sang EU tính tới hiện tại khá tích cực do người tiêu dùng EU ưa chuộng các sản phẩm thủy sản giá trị gia tăng tiện lợi và tăng NK để phục vụ nhu cầu các lễ hội cuối năm. Đây là tín hiệu tốt, tạo đà tăng trưởng mạnh hơn cho XK tôm sang thị trường này những tháng cuối năm khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) chuẩn bị có hiệu lực.

Để tận dụng cơ hội đẩy mạnh XK tôm sang thị trường EU, Vasep cho rằng, các doanh nghiệp cần bảo đảm tuân thủ mọi yêu cầu về các biện pháp kiểm dịch động thực vật của EU cũng như nên thực hiện các yêu cầu kỹ thuật, đóng gói, ghi nhãn… Doanh nghiệp cũng cần chủ động đổi mới, sáng tạo, tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng sản phẩm và xây dựng kế hoạch phù hợp nhằm nâng cao năng lực để đối phó với thách thức.

Từ vị trí thứ nhất, Mỹ đã tụt xuống vị trí thị trường thứ tư của tôm Việt Nam trong 8 tháng đầu năm nay. Giá trị XK tôm sang Mỹ đạt gần 416 triệu USD, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm 2016. XK tôm sang Mỹcó chiều hướng đi xuống do tác động của việc Bộ Thương mại Mỹ (DOC) tăng thuế chống bán phá giá trong quyết định sơ bộ của đợt xem xét hành chính lần thứ 11 (POR11), đồng USD sụt giá do tác động từ các chính sách mới liên quan tới bảo hộ sản xuất trong nước của Tổng thống Donald Trump.

Bộ Công Thương lý giải thêm, sự phục hồi nguồn cung của thị trường Ấn Độ- đối thủ cạnh tranh chính của tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ sau một thời gian bị dịch bệnh đã làm giảm thị phần của tôm Việt Nam vốn kém cạnh tranh hơn về giá do chịu thuế chống bán phá cao hơn. Bên cạnh đó, trong bối cảnh XK tôm sang Mỹ khó khăn, các DN đã chủ động chuyển hướng XK sang các thị trường khác dễ tính hơn thuộc khu vực châu Á và EU nên kim ngạch XK sang Mỹ giảm hơn thời gian trước. Tuy vậy, do nhu cầu tiêu thụ tôm của thị trường Mỹ được dự báo sẽ tăng vào nửa cuối năm nay nên dự kiến, kim ngạch XK tôm Việt Nam sang Mỹ trong giai đoạn này sẽ tăng so với cùng kỳ năm ngoái, dù tốc độ tăng trưởng không cao.

Bộ Công Thương cũng khuyến cáo, hiện tại các DN XK tôm đã bước đầu có sự chuyển hướng sang một số thị trường khác ít khó khăn hơn để XK được với mức giá tốt hơn, tuy nhiên, Mỹ vẫn là thị trường có nhiều tiềm năng phát triển do vậy, về lâu dài, cần có giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao chất lượng, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn, về an toàn thực phẩm nhằm giữ vững và mở rộng thị phần XK tại thị trường này.

Với nhu cầu tăng trưởng tốt từ các thị trường châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc…) và EU, DN cũng có ý thức nâng cao năng suất chế biến, đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm tinh chế, Vasep dự báo, XK tôm Việt Nam năm 2017 dự kiến đạt khoảng 3,4 tỷ; tăng khoảng 6% so với năm 2016.

Phương Lan

Nguồn: http://baocongthuong.com.vn/

XUẤT KHẨU THỦY SẢN VỮNG VÀNG MỤC TIÊU 8 TỶ USD

(HQ Online)- Với đà XK thuận lợi, dự kiến kim ngạch XK thủy sản cả năm sẽ đạt khoảng 8 tỷ USD, tăng hơn 1 tỷ USD so với năm 2016.

Năm nay thời tiết khá thuận lợi cho việc nuôi tôm, tạo nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ chế biến, XK. Ảnh: N.Thanh.

Tăng hơn 18% so với cùng kỳ

Suốt từ đầu năm đến nay, XK thủy sản luôn ở đà tăng trưởng đi lên so với các tháng cùng kỳ năm trước. Theo Bộ NN&PTNT, lũy kế 8 tháng đầu năm, XK thủy sản ước đạt 5,13 tỷ USD, tăng hơn 18% so với cùng kỳ năm 2016. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường NK hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 7 tháng đầu năm, chiếm 55,6% tổng giá trị XK. 7 tháng qua, các thị trường có giá trị XK thủy sản tăng mạnh điển hình phải kể tới là Trung Quốc (trên 57%), Nhật Bản (30,8%), Anh (trên 30%), Hàn Quốc (28,8%)…

Theo đại diện Bộ NN&PTNT: Năm nay tình hình nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với hai mặt hàng thủy sản chủ lực là cá tra và tôm có những tín hiệu khá tích cực, tạo nguồn cung ổn định cho XK. Cụ thể, đối với mặt hàng cá tra, các ao nuôi cá tra được quản lý và quy hoạch chặt chẽ. Từ đầu năm đến nay, giá cá tra có xu hướng tăng nên người nuôi dần ổn định sản xuất. Diện tích nuôi cá tra hiện có đạt 4.746 ha, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước. Vào vụ thu hoạch chính, sản lượng thu hoạch 8 tháng của các tỉnh ĐBSCL tăng trưởng khá, đạt trên 815 nghìn tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, Đồng Tháp là tỉnh có sản lượng thu hoạch lớn nhất đạt trên 303 nghìn tấn, tăng tới 25,4% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với mặt hàng tôm, nhìn chung thời tiết năm nay thuận lợi hơn rất nhiều so với năm 2016 nên nuôi tôm nước lợ vùng ĐBSCL tăng khá. Cụ thể, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng 8 tháng ước đạt 63,6 nghìn ha, tăng trên 15% so với cùng kỳ năm trước với sản lượng ước đạt hơn 165 nghìn tấn, tăng mạnh gần 34%. Với tôm sú, sản lượng thu hoạch trong 8 tháng đầu năm ước đạt hơn 150 nghìn tấn, tăng 8,1%. Đặc biệt, điểm đáng chú ý là, giá tôm nguyên liệu hiện vẫn duy trì ở mức ổn định và có xu hướng tăng, tạo thêm động lực cho người nuôi trồng.

Cả năm xuất khẩu đạt 8 tỷ USD

Thời gian vừa qua, việc Hoa Kỳ quyết định kiểm tra 100% lô hàng cá tra của Việt Nam XK vào thị trường này theo chương trình thanh tra cá da trơn từ ngày 2/8 thay vì kế hoạch từ ngày 1/9 trước đó đã đặt ra những lo ngại về tình hình XK cá tra nói riêng và XK thủy sản nói chung.

Liên quan tới vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Oai, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho biết: Thông thường mỗi năm, giá trị XK cá tra vào Hoa Kỳ chiếm khoảng trên 21% tổng giá trị XK mặt hàng này. Khi Hoa Kỳ thực hiện kiểm tra 100% lô hàng cá tra XK từ Việt Nam, hàng được đưa về kho do phía Hoa Kỳ yêu cầu và phía Hoa Kỳ sẽ lấy mẫu khoảng 3% trên tổng số hàng đem đi kiểm tra. Hiện nay, Việt Nam chỉ có 3 DN XK cá tra vào Hoa Kỳ. Các DN vừa tập trung sản xuất tự chủ nguồn cá tra, vừa mua thêm nguyên liệu từ các hộ nuôi trồng khác. Ngoài sự chuẩn bị của các DN, Bộ NN&PTNT cũng ban hành Chương trình kiểm soát cá da trơn XK sang thị trường Hoa Kỳ nhằm kiểm soát tốt hơn vấn đề này. “Vì vậy, mặc dù phía Hoa Kỳ áp dụng kiểm tra 100% lô hàng khá gắt gao, song động thái này không gây ảnh hưởng nhiều tới XK cá tra nói riêng và XK thủy sản nói chung trong cả năm nay. Dự kiến, XK cá tra cả năm đạt khoảng 1,7 tỷ USD và XK thủy sản tự tin đạt mức 8 tỷ USD, tăng tới hơn 1 tỷ USD so với năm 2016”, ông Oai nhấn mạnh.

Trên thực tế, thời gian qua cùng với đà tăng trưởng của XK, kim ngạch NK thủy sản cũng tăng khá mạnh. Cụ thể, báo cáo của Bộ NN&PTNT cho thấy, 8 tháng đầu năm, giá trị NK thủy sản đạt hơn 900 triệu USD, tăng trên 31% so với cùng kỳ năm 2016. Thị trường NK thủy sản lớn nhất trong 7 tháng đầu năm là Ấn Độ (chiếm 26,4% thị phần), tiếp ngay sau đó là Trung Quốc với 8,8% thị phần. Trước một số ý kiến băn khoăn đặt ra về việc thủy sản XK tăng song cũng phụ thuộc nguồn nguyên liệu NK, ông Oai cho biết thêm: Việt Nam hiện đang XK thủy sản tới hơn 100 quốc gia. Nguồn nguyên liệu trong nước cơ bản đáp ứng nhu cầu chế biến hàng XK. Tuy nhiên, khi dư thừa công suất, việc NK thêm nguyên liệu chế biến, XK, góp phần tăng thêm giá trị gia tăng là điều đáng mừng, không có gì đáng lo ngại.

Về những nhiệm vụ trọng tâm nhằm phát triển bền vững ngành thủy sản trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường chỉ đạo, Tổng cục Thủy sản phải tiếp tục hoàn thiện Luật Thủy sản theo tinh thần đảm bảo chất lượng và tiến độ để trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV. Bên cạnh đó, Tổng cục Thủy sản cũng phải tích cực phối hợp với Cục Thú y, Cục Quản lý chất lượng Nông, lâm sản và Thủy sản tổ chức hội nghị quán triệt 6 tỉnh nuôi tôm trọng điểm trên cả nước về vấn đề kháng sinh và tạp chất.

Thanh Nguyễn