DOANH NGHIỆP FDI CHIẾM 65,1% KIM NGẠCH XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM

Tính đến hết ngày 15/4/2017, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt kim ngạch xuất nhập khẩu gần 70,05 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2016, chiếm 65,1% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước.

Theo số liệu thống kê sơ bộ mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, tổng kim ngạch xuất khẩu , nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 1 tháng 4/2017 (từ 1/4 đến 15/4/2017) đạt gần 16,37 tỷ USD giảm 13,9% (tương ứng giảm gần 2,65 tỷ USD) so với kỳ 2 tháng 3/2017.

Như vậy, tính đế​n hết ngày 15/04/2017 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt hơn 107,58 tỷ USD, tăng 18,5% (tương ứng tăng gần 16,76 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2016.

 
Doanh nghiệp FDI chiếm 65,1% kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam.

Cán cân thương mại hàng hóa trong kỳ 1 tháng 04/2017 thâm hụt 501 triệu USD, đưa cán cân thương mại hàng hóa của cả nước từ đầu năm đến hết ngày 15 tháng 04/2017 thâm hụt hơn 2,56 tỷ USD, bằng 4,9% kim ngạch xuất khẩu của cả nước

Cũng theo thống kê của Hải quan Việt Nam, trong 15 ngày đầu tháng 4/2017 khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( FDI ) đạt kim ngạch xuất nhập khẩu gần 10,87 tỷ USD, giảm 13% tương ứng giảm hơn 1,62 tỷ USD so với nửa cuối tháng 3/2017.

Tính đến hết ngày 15/4/2017 khối này đạt kim ngạch xuất nhập khẩu gần 70,05 tỷ USD, tăng 18,5%, tương ứng tăng gần 10,95 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2016, chiếm 65,1% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước.

Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp có vốn FDI trong nửa đầu tháng 4/2017 thặng dư 504 triệu USD, đưa mức thặng dư của khối này từ đầu năm đến hết 15/4/2017 hơn 3,92 tỷ USD.

Theo Hòa Lộc

Doanh nghiệp Việt Nam

Nguồn: http://cafef.vn/

RAU QUẢ XUẤT KHẨU MANG VỀ GẦN 190 TỶ ĐỒNG/NGÀY

(HQ Online)- Rau quả tiếp tục là điểm sáng ấn tượng trong hoạt động xuất khẩu những tháng đầu năm của nước ta với con số tăng trưởng cao ở mức 2 con số, mang về số tiền gần 190 tỷ đồng/ngày.

Cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn- địa bàn xuất khẩu rau quả và mặt hàng nông sản nói chung của nước ta sang Trung Quốc. Ảnh: T.Bình.

73% xuất sang Trung Quốc

Thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, tính đến 15/4, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả của nước ta đạt 857 triệu USD, tăng tới gần 30% so với cùng kỳ năm 2016 (cùng kỳ mới đạt 661 triệu USD), tương giá trị tuyệt đối tăng thêm 196 triệu USD.

Như vậy, bình quân mỗi ngày mặt hàng rau quả mang về khoản ngoại tệ gần 8,2 triệu USD, tương đương số tiền gần 190 tỷ đồng/ngày.

Với kết quả trên, mặt hàng rau quả tiếp tục duy trì vị thế thứ 3 trong số các mặt hàng nông, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam (sau thủy sản và cà phê).

Đáng chú ý, mặt hàng rau quả có tốc độ tăng trưởng mạnh hơn thủy sản (chỉ đạt 7,8%) và cà phê (đạt 21%) nên khoảng cách về kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này với hai nhóm hàng đứng trên đang được thu hẹp dần.

Biểu đồ tỷ lệ trị giá kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả chia theo thị trường quý I/2017. Biểu đồ: T.Bình.

Liên quan đến thị trường xuất khẩu, theo quan sát của chúng tôi, hiện mặt hàng rau quả của nước ta đã có mặt ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới từ châu Á, châu Â, châu Mỹ… Trong đó có nhiều thị trường vốn nổi tiếng đòi hỏi cao về chất lượng như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc các quốc gia châu Âu như Đức, Hà Lan…

Tuy nhiên, thị trường lớn nhất của rau quả Việt Nam vẫn là Trung Quốc. Thống kê mới nhất chia theo thị trường của Tổng cục Hải quan cho thấy, hết quý I vừa qua, rau quả xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 512 triệu USD, chiếm đến 73% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước trong cùng thời điểm.

Trong số các địa phương biên giới giáp Trung Quốc, địa bàn xuất khẩu mặt hàng rau quả đang tập trung chủ yếu ở khu vực cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn) và khu vực cửa khẩu Lào Cai…

Đa dạng hóa thị trường

Đánh giá về kết quả xuất khẩu mặt hàng rau quả thời gian qua, ngày 24/4, trao đổi với phóng viên Báo Hải quan, TS Nguyễn Hữu Đạt- Ủy viên Ban chấp hành Hiệp hội rau quả Việt Nam (VINAFRUIT) cho rằng kết quả này rất khả quan.

Theo TS Nguyễn Hữu Đạt, kết quả xuất khẩu rau quả ngày càng tạo được khởi sắc xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Trước tiên là kết quả xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường do các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện đã và đang tạo được những kết quả tích cực. Nhờ đó, mặt rau quả Việt Nam bắt đầu tìm được chỗ đứng ở những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc hay các quốc gia thuộc EU…

“Dù trị giá kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường trên chưa lớn, nhưng việc đặt chân được vào các quốc gia khó tính, có yêu cầu rất cao về chất lượng giúp tăng uy tín cho mặt hàng rau quả Việt Nam”- TS Đạt chia sẻ.

Mặt khác, theo nhận định của TS Nguyễn Hữu Đạt, nhu cầu tiêu thụ mặt hàng rau quả trên thế giới tiếp tục tăng là cơ hội cho việc tăng trưởng xuất khẩu đối với sản phẩm này của nước ta hiện nay cũng như thời gian tới.

Đặc biệt, một nguyên nhân quan trọng được TS Nguyễn Hữu Đạt đặc biệt nhấn mạnh là vai trò của nhà khoa học, cộng đồng doanh nghiệp và cả các nhà sản xuất, hộ nông dân trong nỗ lực đa dạng hóa mẫu mã, chất lượng sản phẩm, quảng bá thương hiệu đối với rau quả Việt Nam.

“Doanh nghiêp xuất khẩu rau quả đa phần còn hạn hẹp về tài chính những đã có nhiều nỗ lực trong quảng bá thương hiệu, tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Mặt khác trong một hai năm gần đây đã có sự kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp xuất khẩu với hộ nông dân, những người sản xuất, vì vậy, chất lượng, mẫu mã sản phẩm ngày càng được nâng cao, tạo được nguồn hàng cung cấp ổn định, qua đó ngày càng tạo được uy tín của rau quả Việt Nam trên thị trường thế giới”- lãnh đạo VINAFRUIT nhận định.

Năm 2016, mặt hàng rau quả mang về trị giá kim ngạch 2,457 tỷ USD, với mức tăng trưởng 33,6% so với năm 2015. Đây là nhóm hàng xuất khẩu lớn thứ 3 trong lĩnh vực nông, thủy sản (sau thủy sản và cà phê) và là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng đứng thứ trong tổng số 45 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực được Tổng cục Hải quan thống kê (sau mặt hàng đá quý, kim loại quý và sản phẩm với mức tăng trưởng 44,4%).
Thái Bình

LẦN ĐẦU TIÊN CÓ 9 NHÓM HÀNG XUẤT KHẨU “TỶ USD” TRONG QUÝ I

(HQ Online)- Lần đầu tiên kết thúc quý I cả nước có 9 nhóm hàng đạt trị giá kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên, tăng 1 nhóm hàng so với cùng kỳ 2016.
Biều đồ trị giá kim ngạch 9 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đến hết quý I, đơn vị tính “tỷ USD”. Biểu đồ: T.Bình.
Thông tin mới nhất từ Tổng cục Hải quan cho thấy, nhóm hàng mới nhất đạt trị giá kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên qua 3 tháng đầu năm là mặt hàng cà phê. Hết quý I, nhóm hàng này đạt trị giá kim ngạch 1,029 tỷ USD, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong số 9 nhóm hàng xuất khẩu “tỷ USD” điện thoại vẫn là nhóm hàng dẫn đầu với trị giá kim ngạch đạt 7,774 tỷ USD. Nhưng đây cũng là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực duy nhất có mức tăng trưởng âm với mức giảm 6,1% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong khi đó, hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu lớn khác của nước ta đều có mức tăng trường cao 2 con số so với cùng kỳ năm 2016.

Đáng chú ý, nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện có mức tăng trưởng cao nhất lên đến 47,8% (tương đương con số tuyệt đối 1,786 tỷ USD), kéo theo trị giá kim ngạch trong quý I đạt 5,519 tỷ USD.

Dù vẫn đứng thứ ba cả nước về xuất khẩu, nhưng khoảng cách giữa nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với mặt hàng đứng kế trên là dệt may đã được thu hẹp đáng kể chỉ còn 104 triệu USD (trong khi đó sự chênh lệch của quý I/2016 lên đến 1,377 tỷ USD).

Với tổng trị giá kim ngạch đạt 30,972 tỷ USD, 9 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đóng góp tới gần 70% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong cùng thời điểm.

Nhìn vào kết quả xuất khẩu quý I vừa qua có thể thấy, hoạt động kinh tế quan trọng này của nước ta đang có những chuyển biến tích cực với nhiều khởi sắc.

Đó là, nhiều nhóm hàng xuất khẩu chủ lực tăng trưởng cao; đồng thời hoạt động xuất khẩu không còn bị phụ thuộc lớn vào một số ít nhóm hàng như điện thoại hay dệt may như những năm trước.

Một tín hiệu lạc quan khác là sự xuất hiện ngày càng nhiều, càng rõ nét và đóng góp quan trọng của những nhóm hàng công nghiệp công nghệ cao như: Điện thoại; máy vi tính, sản phẩm điện tử; máy móc, thiết bị; phương tiện vận tải; máy ảnh, máy quay phim…

Theo Tổng cục Hải quan, hết quý I, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 44,638 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm 2016.

 

Thái Bình

NHỮNG NHÓM HÀNG XUẤT KHẨU CHÍNH QUÝ I/2017

(HQ Online)- Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất trong quý I/2017 đạt gần 31,76 tỷ USD, chiếm 71,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện là nhóm hàng lớn nhất, tuy nhiên giảm 6,1% so với cùng kỳ năm trước, còn lại hầu hết các nhóm hàng trong 10 nhóm hàng lớn nhất đều đạt mức tăng trưởng dương.

 

 

10 Nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất quý I năm 2017 so với cùng kỳ 2016

Điện thoại các loại và linh kiện: Xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong tháng 3/2016 đạt 3,09 tỷ USD, tăng 31% so với tháng trước, nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2017 lên 7,77 tỷ USD, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Những đối tác chính nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện của Việt Nam trong 3 tháng qua bao gồm: EU với 2,38 tỷ USD, giảm gần 6,1% và chiếm 30,6% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là: Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất: gần 901 triệu USD, giảm 19,9%; Hàn Quốc: 755 triệu USD, tăng 32,8%; Hoa Kỳ: 620 triệu USD, giảm 43%… so với cùng kỳ năm 2016.

Hàng dệt may: Xuất khẩu trong tháng đạt 2,1 tỷ USD, tăng mạnh 51,6% so với tháng trước, qua đó nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng/2017 lên 5,62 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong 3 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 2,72 tỷ USD, tăng 8,1 %; sang EU đạt 733 triệu USD, tăng 6,6%; sang Nhật Bản đạt 715 triệu USD, tăng 12,4% và sang Hàn Quốc: 617 triệu USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Xuất khẩu máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện trong tháng 3/2017 đạt mức cao nhất từ trước tới nay với kim ngạch là 2,19 tỷ USD, tăng 27,5% so với tháng trước. Qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của 3 tháng lên 5,52 tỷ USD, tăng cao 47,8% so với cùng kỳ năm 2016.

Trung Quốc vẫn là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 3 tháng qua với kim ngạch đạt 1,37 tỷ USD, tăng cao 123,5%; tiếp theo là EU: 1,04 tỷ USD, tăng 12,3%. Tính riêng xuất khẩu sang 2 thị trường này chiếm đến 44% tổng kim ngạch xuất khẩu máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện của cả nước.

Giầy dép các loại: Xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt hơn 1,09 tỷ USD, tăng 26,6% so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2017 đạt gần 3,12 tỷ USD, tăng 11,9% so với tháng trước.

Các thị trường nhập khẩu giầy dép các loại của Việt Nam trong quý I/2017 chủ yếu gồm: thị trường Hoa Kỳ với 1,07 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; thị trường EU (28 nước) đạt 988 triệu USD, tăng 9,9%; thị trường Trung Quốc đạt 240 triệu USD, tăng 28,5%;…

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác: Đạt kim ngạch xuất khẩu trong tháng gần 1,13 tỷ USD, tăng 24,3% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu cả quý là gần 2,91 tỷ USD, tăng 37,5% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác của Việt Nam trong quý I/2017 chủ yếu gồm: thị trường Hoa Kỳ với 602 triệu USD, tăng 26,7%; thị trường Nhật Bản đạt 402 triệu USD, tăng 14,5%; thị trường Trung Quốc với 370 triệu USD, tăng 85,6%;…

Hàng nông sản (bao gồm các nhóm hàng: hàng rau quả; hạt điều, cà phê, chè, hạt tiêu, gạo, sắn và các sản phẩm từ sắn): Xuất khẩu hàng nông sản trong tháng 3/2017 đạt 1,59 tỷ USD, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản trong quý I/2017 đạt 3,94 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong quý I/2017 chủ yếu gồm: Thị trường Trung Quốc với 1,47 tỷ USD, tăng 27,6% so với cùng kỳ năm trước; thị trường EU (28 nước) với 748 triệu USD, tăng 24,8%; thị trường Hoa Kỳ với 457 triệu USD, tăng 23,5%; thị trường ASEAN với 371 triệu USD, giảm 17,5%; thị trường Nhật Bản với 92 triệu USD, tăng 17%; thị trường Hàn Quốc với 86 triệu USD, tăng 52%;…

Xuất khẩu hàng rau quả trong tháng đạt 280 triệu USD, tăng 49,5% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu quý I/2017 đạt 701 triệu USD, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu hạt điều trong tháng đạt được mức tăng trưởng mạnh cả về lượng và trị giá, với 24 nghìn tấn, trị giá 230 triệu USD, tăng 80,1% về lượng và 88% về trị giá so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2017 đạt 56 nghìn tấn, trị giá 515 triệu USD, giảm 4,6% về lượng nhưng tăng 16,9% về trị giá.

Xuất khẩu cà phê trong tháng đạt 168 nghìn tấn, trị giá 382 triệu USD; tăng 14,8% về lượng và 15,1% về trị giá, đưa kim ngạch xuất khẩu trong 3 tháng/2017 đạt 454 nghìn tấn, trị giá gần 1,03 tỷ USD, giảm 4,3% về lượng, tuy nhiên lại tăng 27,5% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Gạo xuất khẩu trong tháng đạt 551 nghìn tấn, trị giá 251 triệu USD, tăng 38,8% về lượng và 47,2% về trị giá so với tháng trước, qua đó đưa kim ngạch xuất khẩu gạo 3 tháng/2017 đạt 1,29 triệu tấn, trị giá 565 triệu USD, giảm 17,5% về lượng và 17,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Cao su trong tháng xuất khẩu được 66 nghìn tấn, trị giá 138 triệu USD, giảm 26,8% về lượng và 27,9% về trị giá, đưa kim ngạch xuất khẩu trong quý I của nhóm hàng này đạt 250 nghìn tấn, trị giá 511 triệu USD, tăng 6,7% về lượng tuy nhiên tăng 90,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Hàng thủy sản: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tháng 3/2017 đạt 603 triệu USD, tăng 41,6% tháng trước, qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng/2017 lên 1,51 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến hết tháng 3, hàng thủy sản của Việt Nam tăng trưởng ở hầu hết các thị trường chính trừ thị trường Hoa Kỳ. Cụ thể, xuất sang Nhật Bản: 253 triệu USD, tăng 29,3%; Hoa Kỳ: 251 triệu USD, giảm 14,4%, sang Liên minh Châu Âu (EU): 249 triệu USD, tăng 2,3%; Trung Quốc: 144 triệu USD tăng 20,9% và Hàn Quốc: 141 triệu USD, tăng 26,4%…

Dầu thô: Lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng là 470 nghìn  tấn, giảm 11,8%, trị giá là 181 triệu USD, giảm 18,3% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 3/2017, lượng dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt 1,52 triệu tấn, giảm 16,2% và kim ngạch đạt 637 triệu USD, tăng 27,1% so với cùng kỳ năm trước.

Dầu thô của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc: 704 nghìn tấn, giảm 39,8%; sang Nhật Bản: 237 nghìn tấn, tăng 206,9%; sang Sing-ga-po: 193 nghìn tấn (cùng kỳ năm 2016 không có lô dầu thô nào được xuất sang quốc gia này)…

Than đá: Xuất khẩu than đá của Việt Nam trong tháng 3/2017 đạt 194 nghìn tấn, tăng 45,2% so với tháng trước, trị giá đạt 30 triệu USD, tăng 31,8%. Trong 3 tháng đầu năm 2017, lượng than đá xuất khẩu là 401 nghìn tấn, tăng 5,1 lần và  đạt trị giá đạt gần 65 triệu USD, tăng 12 lần so với cùng kỳ năm 2016 .

Trung Quốc tiếp tục là đối tác lớn nhất tiêu thụ than đá của Việt Nam với hơn 5 triệu tấn, tăng 4% và chiếm tới 80% tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước.

Hà Nhi

NHỮNG NHÓM HÀNG XUẤT KHẨU CHÍNH QUÝ I/2017

(HQ Online)- Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất trong quý I/2017 đạt gần 31,76 tỷ USD, chiếm 71,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện là nhóm hàng lớn nhất, tuy nhiên giảm 6,1% so với cùng kỳ năm trước, còn lại hầu hết các nhóm hàng trong 10 nhóm hàng lớn nhất đều đạt mức tăng trưởng dương.

 

 

10 Nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất quý I năm 2017 so với cùng kỳ 2016

Điện thoại các loại và linh kiện: Xuất khẩu điện thoại các loại và linh kiện trong tháng 3/2016 đạt 3,09 tỷ USD, tăng 31% so với tháng trước, nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2017 lên 7,77 tỷ USD, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Những đối tác chính nhập khẩu điện thoại các loại và linh kiện của Việt Nam trong 3 tháng qua bao gồm: EU với 2,38 tỷ USD, giảm gần 6,1% và chiếm 30,6% tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là: Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất: gần 901 triệu USD, giảm 19,9%; Hàn Quốc: 755 triệu USD, tăng 32,8%; Hoa Kỳ: 620 triệu USD, giảm 43%… so với cùng kỳ năm 2016.

Hàng dệt may: Xuất khẩu trong tháng đạt 2,1 tỷ USD, tăng mạnh 51,6% so với tháng trước, qua đó nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng/2017 lên 5,62 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong 3 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 2,72 tỷ USD, tăng 8,1 %; sang EU đạt 733 triệu USD, tăng 6,6%; sang Nhật Bản đạt 715 triệu USD, tăng 12,4% và sang Hàn Quốc: 617 triệu USD, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Xuất khẩu máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện trong tháng 3/2017 đạt mức cao nhất từ trước tới nay với kim ngạch là 2,19 tỷ USD, tăng 27,5% so với tháng trước. Qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của 3 tháng lên 5,52 tỷ USD, tăng cao 47,8% so với cùng kỳ năm 2016.

Trung Quốc vẫn là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 3 tháng qua với kim ngạch đạt 1,37 tỷ USD, tăng cao 123,5%; tiếp theo là EU: 1,04 tỷ USD, tăng 12,3%. Tính riêng xuất khẩu sang 2 thị trường này chiếm đến 44% tổng kim ngạch xuất khẩu máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện của cả nước.

Giầy dép các loại: Xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt hơn 1,09 tỷ USD, tăng 26,6% so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2017 đạt gần 3,12 tỷ USD, tăng 11,9% so với tháng trước.

Các thị trường nhập khẩu giầy dép các loại của Việt Nam trong quý I/2017 chủ yếu gồm: thị trường Hoa Kỳ với 1,07 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; thị trường EU (28 nước) đạt 988 triệu USD, tăng 9,9%; thị trường Trung Quốc đạt 240 triệu USD, tăng 28,5%;…

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác: Đạt kim ngạch xuất khẩu trong tháng gần 1,13 tỷ USD, tăng 24,3% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu cả quý là gần 2,91 tỷ USD, tăng 37,5% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác của Việt Nam trong quý I/2017 chủ yếu gồm: thị trường Hoa Kỳ với 602 triệu USD, tăng 26,7%; thị trường Nhật Bản đạt 402 triệu USD, tăng 14,5%; thị trường Trung Quốc với 370 triệu USD, tăng 85,6%;…

Hàng nông sản (bao gồm các nhóm hàng: hàng rau quả; hạt điều, cà phê, chè, hạt tiêu, gạo, sắn và các sản phẩm từ sắn): Xuất khẩu hàng nông sản trong tháng 3/2017 đạt 1,59 tỷ USD, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản trong quý I/2017 đạt 3,94 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường nhập khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong quý I/2017 chủ yếu gồm: Thị trường Trung Quốc với 1,47 tỷ USD, tăng 27,6% so với cùng kỳ năm trước; thị trường EU (28 nước) với 748 triệu USD, tăng 24,8%; thị trường Hoa Kỳ với 457 triệu USD, tăng 23,5%; thị trường ASEAN với 371 triệu USD, giảm 17,5%; thị trường Nhật Bản với 92 triệu USD, tăng 17%; thị trường Hàn Quốc với 86 triệu USD, tăng 52%;…

Xuất khẩu hàng rau quả trong tháng đạt 280 triệu USD, tăng 49,5% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu quý I/2017 đạt 701 triệu USD, tăng 29,8% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu hạt điều trong tháng đạt được mức tăng trưởng mạnh cả về lượng và trị giá, với 24 nghìn tấn, trị giá 230 triệu USD, tăng 80,1% về lượng và 88% về trị giá so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2017 đạt 56 nghìn tấn, trị giá 515 triệu USD, giảm 4,6% về lượng nhưng tăng 16,9% về trị giá.

Xuất khẩu cà phê trong tháng đạt 168 nghìn tấn, trị giá 382 triệu USD; tăng 14,8% về lượng và 15,1% về trị giá, đưa kim ngạch xuất khẩu trong 3 tháng/2017 đạt 454 nghìn tấn, trị giá gần 1,03 tỷ USD, giảm 4,3% về lượng, tuy nhiên lại tăng 27,5% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Gạo xuất khẩu trong tháng đạt 551 nghìn tấn, trị giá 251 triệu USD, tăng 38,8% về lượng và 47,2% về trị giá so với tháng trước, qua đó đưa kim ngạch xuất khẩu gạo 3 tháng/2017 đạt 1,29 triệu tấn, trị giá 565 triệu USD, giảm 17,5% về lượng và 17,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Cao su trong tháng xuất khẩu được 66 nghìn tấn, trị giá 138 triệu USD, giảm 26,8% về lượng và 27,9% về trị giá, đưa kim ngạch xuất khẩu trong quý I của nhóm hàng này đạt 250 nghìn tấn, trị giá 511 triệu USD, tăng 6,7% về lượng tuy nhiên tăng 90,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Hàng thủy sản: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tháng 3/2017 đạt 603 triệu USD, tăng 41,6% tháng trước, qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 3 tháng/2017 lên 1,51 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước.

Tính đến hết tháng 3, hàng thủy sản của Việt Nam tăng trưởng ở hầu hết các thị trường chính trừ thị trường Hoa Kỳ. Cụ thể, xuất sang Nhật Bản: 253 triệu USD, tăng 29,3%; Hoa Kỳ: 251 triệu USD, giảm 14,4%, sang Liên minh Châu Âu (EU): 249 triệu USD, tăng 2,3%; Trung Quốc: 144 triệu USD tăng 20,9% và Hàn Quốc: 141 triệu USD, tăng 26,4%…

Dầu thô: Lượng xuất khẩu dầu thô trong tháng là 470 nghìn  tấn, giảm 11,8%, trị giá là 181 triệu USD, giảm 18,3% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 3/2017, lượng dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt 1,52 triệu tấn, giảm 16,2% và kim ngạch đạt 637 triệu USD, tăng 27,1% so với cùng kỳ năm trước.

Dầu thô của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc: 704 nghìn tấn, giảm 39,8%; sang Nhật Bản: 237 nghìn tấn, tăng 206,9%; sang Sing-ga-po: 193 nghìn tấn (cùng kỳ năm 2016 không có lô dầu thô nào được xuất sang quốc gia này)…

Than đá: Xuất khẩu than đá của Việt Nam trong tháng 3/2017 đạt 194 nghìn tấn, tăng 45,2% so với tháng trước, trị giá đạt 30 triệu USD, tăng 31,8%. Trong 3 tháng đầu năm 2017, lượng than đá xuất khẩu là 401 nghìn tấn, tăng 5,1 lần và  đạt trị giá đạt gần 65 triệu USD, tăng 12 lần so với cùng kỳ năm 2016 .

Trung Quốc tiếp tục là đối tác lớn nhất tiêu thụ than đá của Việt Nam với hơn 5 triệu tấn, tăng 4% và chiếm tới 80% tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước.

Hà Nhi

ÚC THAY ĐỔI ĐIỀU KIỆN NHẬP KHẨU MẶT HÀNG GỖ VÀ SẢN PHẨM TỪ GỖ

Thương vụ Việt Nam tại Úc vừa có thông báo sẽ thay đổi điều kiện nhập khẩu mặt hàng gỗ và các sản phẩm từ gỗ vào nước này từ ngày 19/4/2017.

 

Cụ thể là thay đổi khung thời gian trong việc xuất khẩu sau khi xử lý đối với gỗ chưa gia công và thay đổi về các yêu cầu chứng từ đối với các mặt hàng bằng gỗ.

 

Theo đó, điều kiện nhập khẩu thay đổi đối với gỗ và các sản phẩm từ gỗ bao gồm: Thời gian cho phép từ khi xử lý đến khi xuất khẩu gỗ chưa gia công từ tất cả các quốc gia là 90 ngày; các sản phẩm gỗ tái tạo và gỗ ép, tấm dán và các sản phẩm khác được đưa vào danh sách các mặt hàng từ gỗ đã được gia công cao.

 

Đây là danh sách các mặt hàng được coi là có rủi ro an toàn sinh học thấp. Danh sách này cũng bao gồm các sản phẩm từ gỗ có độ dày và chiều rộng nhỏ hơn 4mm.

 

Các mặt hàng được nêu trong danh sách này chỉ yêu cầu nộp chứng từ thương mại để chứng minh an toàn sinh học.

 

Kể từ ngày 01/9/2017, Bộ Nông nghiệp và Nguồn nước Úc sẽ tăng thời gian cho phép từ khi xử lý đến khi xuất khẩu các sản phẩm từ gỗ từ 21 ngày lên 6 tháng.

 

Bộ cũng yêu cầu các sản phẩm từ gỗ phải kèm theo tờ khai bổ sung của nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp ghi rõ hàng hóa này được lưu giữ để tránh rủi ro tái nhiễm sâu bệnh giữa giai đoạn xử lý và xuất khẩu.

 

Tờ khai bổ sung đối với các sản phẩm từ gỗ xác nhận các nhà sản xuất/cung cấp đã sử dụng một hoặc tất cả các biện pháp dưới đây để quản lý rủi ro tái nhiễm:

 

– Cơ sở sản xuất/kho bãi sạch sẽ và không có sâu bệnh;

 

– Một hệ thống quản lý hoặc quy trình tại chỗ nhằm duy trì việc cơ sở sản xuất/kho bãi không có sâu bệnh;

 

– Một quy trình xử lý việc nhiễm bệnh tại cơ sở sản xuất/kho bãi;

 

– Tách nơi lưu giữ gỗ đã xử lý hoặc các sản phẩm đã gia công khỏi nơi lưu giữ gỗ chưa qua xử lý;

 

 – Một quy trình đóng gói đảm bảo hàng hóa được bảo vệ khỏi việc tái nhiễm sâu bệnh.

 

Để chứng minh sự tuân thủ các yêu cầu này thì trên tờ khai bổ sung của các nhà sản xuất/cung cấp cần nêu rõ hàng hóa đã được lưu giữ sau khi xử lý để giảm thiểu nguy cơ tái nhiễm. 

Nguồn: https://www.customs.gov.vn/

XUẤT, NHẬP KHẨU CÙNG TĂNG TRƯỞNG MẠNH, VƯỢT 91 TỶ USD

(HQ Online)- 91,212 tỷ USD là tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước trong quý I/2017, theo thông tin Tổng cục Hải quan vừa công bố chiều nay (ngày 10/4).
Biểu đồ trị giá kim ngạch xuất khẩu 5 nhóm hàng lớn nhất, tính hết quý I, đơn vị tính “tỷ USD”. Biểu đồ: T.Bình.

Đáng chú ý, cả xuất khẩu và nhập khẩu đều có mức tăng trưởng cao hai con số, một hình ảnh đầy lạc quan và khác biệt so với sự ì ạch của quý I/2016

Trong đó, xuất khẩu cả nước đạt tổng giá trị 44,638 tỷ USD, tăng trưởng 15,1% so với cùng kỳ, tương đương con số tăng thêm 5,858 tỷ USD.

Hết quý I ghi nhận cả nước có 9 nhóm hàng hóa xuất khẩu đạt trị giá kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên. Trong đó dẫn đầu tiếp tục là điện thoại và linh kiện đạt 7,774 tỷ US. Các vị trí tiếp theo có thể kể đến là: Dệt may đạt 5,623 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 5,519 tỷ USD; giày dép các loại đạt 3,118 tỷ USD; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện đạt 2,906 tỷ USD…

Đặc biệt, trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngoại trừ điện thoại và linh kiện có mức tăng trưởng âm (giảm 6,1% so với cùng kỳ); các nhóm hàng còn lại đều có sự tăng trưởng khá như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng tới 47,8%; cà phê tăng 27,5%; gỗ và sản phẩm tăng 17,1%; hạt điều tăng 16,9%; giày dép tăng 11,9%; dệt may tăng 10%…

Ở chiều nhập khẩu, sự tăng trưởng còn manh mẽ hơn với con số 24,9% so với cùng kỳ năm 2016, đạt trị giá kim ngạch 46,574 tỷ USD. Trong đó máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng là nhóm hàng dẫn đầu với trị giá kim ngạch đạt 8,071 tỷ USD. Kế đến là các mặt hàng: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 7,603 tỷ USD; điện thoại các loại và linh kiện đạt 2,934 tỷ USD; sắt thép các loại đạt 2,539 tỷ USD; vải đạt 2,346 tỷ USD…

Như vậy, hết quý I/2017, tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu nói chung của cả nước tăng thêm 15,155 tỷ USD so với năm 2016.

Thái Bình

HÀNG ĐIỆN TỬ, RAU QUẢ TĂNG TỐC SANG TRUNG QUỐC

(HQ Online)- Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta như máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện; rau quả… đang có mức tăng trưởng mạnh ở thị trường Trung Quốc.
Cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn- địa bàn xuất khẩu chủ yếu của mặt hàng rau quả sang Trung Quốc. Ảnh: T.Bình.
Theo thông tin vừa được Tổng cục Hải quan công bố về hoạt động xuất khẩu sang các quốc gia, vũng lãnh thổ trọng điểm, hết tháng 2, cả nước xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sang Trung Quốc đạt 825,5 triệu USD. Đây là nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất vào thị trường này, chiếm gần 22% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc.

Kết quả quả trên là sự tăng trưởng mạnh mẽ so với cùng kỳ năm 2016, khi đạt sự tăng trưởng ở mức 3 con số. Cụ thể, so với cùng kỳ năm ngoái, mặt hàng nay tăng trưởng 145%, tương đương con số tăng thêm hơn 488 triệu USD.

Biểu đồ tỷ lệ (%) 3 nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất sang Trung Quốc và các nhóm hàng còn lại, tính đến hết tháng 2/2017. Biểu đồ: T.Bình.

Hiện, Trung Quốc cũng là một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất đối với mặt hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện khi chiếm đến gần 25% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của cả nước.

Đứng thứ hai trong số các mặt hàng xuất khẩu lớn sang Trung Quốc là rau quả với trị giá kim ngạch đạt 310 triệu USD, tương đương mức tăng trưởng 31% so với cùng kỳ năm 2016. Mức tăng trưởng xuất khẩu vào Trung Quốc cũng cao hơn mức tăng trưởng chung của nhóm hàng này (hết tháng 2, xuất khẩu rau quả cả nước tăng 27,3%).

Đáng chú ý, hiện thị trường Trung Quốc chiếm đến 73,6% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả của cả nước.

Trong khi đó, mặt hàng máy ảnh, máy quay phim và linh kiện với mức tăng trưởng hơn 97%, đạt trị giá kim ngạch 305,6 triệu USD là nhóm hàng xuất khẩu lớn thứ ba vào thị trường Trung Quốc.

Tính chung hết tháng 2, Trung Quốc đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ), với tổng giá trị kim ngạch đạt 3,767 tỷ USD.

Kết quả trên tăng 55,3% so với cùng kỳ năm 2016, tương đương con số tăng thêm hơn 1,34 tỷ USD và chiếm  13,7% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước trong cùng thời điểm.

Thái Bình

Những nhóm hàng xuất khẩu chính năm 2016

(HQ Online)- Theo Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng chủ yếu trong năm 2016 đạt gần 126,85 tỷ USD, chiếm 71,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó, lớn nhất là nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện (gần 34,32 tỷ USD); tiếp theo là hàng dệt may (hơn 23,84 tỷ USD), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (gần 18,96 tỷ USD),…

Các thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam giai đoạn 2015-2016

Điện thoại và linh kiện: Kim ngạch nhập khẩu điện thoại và linh kiện trong tháng 12/2016 đạt gần 2,69 tỷ USD, giảm 17,9% so với tháng trước. Qua đó đưa kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này năm 2016 đạt gần 34,32 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường nhập khẩu điện thoại từ Việt Nam trong năm 2016 chủ yếu gồm: thị trường EU (28 nước) với kim ngạch đạt gần 11,24 tỷ USD, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước; Hoa Kỳ đạt kim ngạch hơn 4,3 tỷ USD, tăng 55,5%; Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất đạt kim ngạch 3,83 tỷ USD, giảm 14,5%; thị trường ASEAN đạt gần 2,27 tỷ USD, tăng 6,2%; …

Hàng dệt may: Xuất khẩu hàng dệt may tháng 12/2016 đạt gần 2,3 tỷ USD, tăng 21,1% so với tháng trước. Đưa kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả năm 2016 đạt hơn 23,84 tỷ USD, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước.

Thị trường nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam trong năm 2016 lớn nhất là Hoa Kỳ với kim ngạch hơn 11,45 tỷ USD, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước; đứng thứ 2 là thị trường EU (28 nước) đạt kim ngạch hơn 3,56 tỷ USD, tăng 2,7%; thị trường Nhật Bản đạt kim ngạch hơn 2,9 tỷ USD, tăng 4,2%; …

Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: Trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 12/2016 đạt hơn 1,86 tỷ USD, giảm 1,1% so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong năm 2016 đạt 18,96 tỷ USD, tăng 21,5% so với năm trước tương đương tăng 3,35 tỷ USD.

Trung Quốc là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong năm với 4,1 tỷ USD, tăng 47,2%; tiếp theo là EU đạt 3,73 tỷ USD, tăng 16,5%; sang Hoa Kỳ đạt 2,89 tỷ USD, tăng 2,05%; sang Hà Lan đạt 1,75 tỷ USD, tăng mạnh 53,5%…so với năm trước.

Giày dép các loại: Xuất khẩu giày dép các loại của Việt Nam trong tháng 12 năm 2016 gần 1,34 tỷ USD,tăng 9,7%. Qua đó đưa kim ngạch cả năm của nhóm hàng này đạt 13 tỷ USD, tăng 8,3% so với năm trước,

Xuất khẩu giày dép các loại sang Hoa Kỳ đạt 4,48 tỷ USD tăng gần 10%, sang EU đạt 4,22 tỷ USD tăng 3,51%; sang Trung Quốc đạt 905 triệu USD tăng 20%… so với năm 2015.

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác: Xuất khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác trong tháng 12/2016 đạt hơn 1,03 tỷ USD, giảm 6,3% so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch nhập khẩu cả năm của nhóm hàng này đạt hơn 10,14 tỷ USD, tăng 24,3% so với cùng kỳ năm trước.

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác từ Việt Nam năm 2016 chủ yếu được xuất khẩu sang: Hoa Kỳ với kim ngạch gần 2,13 tỷ USD, tăng 27,2%; Nhật Bản đạt hơn 1,56 tỷ USD, tăng 10,9%; thị trường EU (28 nước) đạt hơn 1,29 tỷ USD, tăng 29,4%; ….

Hàng thủy sản: Xuất khẩu hàng thủy sản tháng 12/2016 đạt 657 triệu USD, giảm 3,1% so với tháng trước, đưa kim ngạch xuất khẩu cả năm của nhóm hàng này đạt 7,05 tỷ USD, tăng 7,4%, tương ứng tăng 484 triệu USD so với năm trước

Hàng thủy sản chủ yếu được xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 1,44 tỷ USD, tăng 9,7%; sang EU đạt 1,2 tỷ USD, tăng 3,6%; sang Nhật Bản 1,1 tỷ USD, tăng 6,2%; sang Trung Quốc đạt 685 triệu USD, tăng 53%…

Gỗ và sản phẩm gỗ: Xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 12/2016 đạt 749 triệu USD, tăng 18,1% so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch xuất khẩu cả năm của nhóm này đạt gần 6,97 tỷ USD, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước.

Gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu trong năm 2016 chủ yếu sang: thị trường Hoa Kỳ với kim ngạch gần 2,83 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước; thị trường Trung Quốc với kim ngạch hơn 1,02 tỷ USD, tăng 4,7%; thị trường Nhật Bản đạt 981 triệu USD; giảm 5,9%; …

Hàng nông sản (gồm các nhóm hàng: hàng rau quả, hạt điều, cà phê, chè, hạt tiêu, gạo): Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong tháng 12/2016 đạt kim ngạch gần 1,1 tỷ USD. Qua đó đưa kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này trong năm 2016 đạt hơn 12,45 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường nhập khẩu hàng nông sản từ Việt Nam trong năm 2016 chủ yếu từ các thị trường sau: Thị trường Trung Quốc với gần 3,13 tỷ USD, tăng 50,4% so với cùng kỳ năm trước; thị trường EU (28 nước) với hơn 2,59 tỷ USD, tăng 16,2%; Hoa Kỳ đạt hơn 1,87 tỷ USD, tăng 25,2%; ….

Than đá: Xuất khẩu than đá tháng 12/2016 đạt 284 nghìn tấn, tị giá 37 triệu USD, tăng 72,5% về lượng và 74,1% về giá so với tháng trước. Qua đó, đưa kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này cả năm 2016 đạt gần 1,28 triệu tấn, trị giá 141 triệu USD; giảm 27% về lượng và 23,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2015.

Các thị trường nhập khẩu than đá từ Việt Nam năm 2016 như: Nhật Bản với kim ngạch 675 nghìn tấn, trị giá 65 triệu USD; tăng 5,4% về lượng và giảm 7,8% về trị giá; thị trường Malysia với 103 nghìn tấn, trị giá 17 triệu USD; tăng 105,4% về lượng và 174,6% về trị giá; ….

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn/