VÌ SAO BỘ Y TẾ CHƯA KẾT NỐI CƠ CHẾ MỘT CỬA QUỐC GIA VỚI THIẾT BỊ Y TẾ LOẠI B, C, D?

(HQ Online)- Theo ông Nguyễn Minh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Trang thiết bị và Công trình y tế, Bộ Y tế, do khó khăn từ nhiều phía nên cơ quan này vừa phải đề xuất Chính phủ lùi thời hạn cấp và có hiệu lực của thiết bị y tế loại B, C, D sang thời điểm 1/1/2019 thay vì thời điểm ngày 1/1/2018.

Nguyễn Minh Tuấn, y tế

Ông Nguyễn Minh Tuấn.

Sau hơn 1 năm thực hiện Nghị định 36/2016/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý trang thiết bị y tế, kết quả lớn nhất mà các cơ sở y tế và doanh nghiệp thu được là gì, thưa ông?

Nghị định 36/2016/NĐ-CP của Chính phủ đã tạo ra khung pháp lý chặt chẽ giúp nhà quản lý, các bệnh viện, cơ sở y tế và các DN nắm rõ các quy định, xác định quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên khi tham gia hoạt động trong lĩnh vực trang thiết bị y tế.

Tại Nghị định 36/2016/NĐ-CP, trang thiết bị y tế được chia thành 4 loại A, B, C và D để quản lý, tùy theo mức độ rủi ro cho người bệnh, cán bộ y tế và cộng đồng mà có biện pháp quản lý cho phù hợp. Sau một thời gian thực hiện, nhiều DN phản hồi về Bộ Y tế cho rằng, Nghị định tạo thuận lợi nhiều mặt, giúp DN rõ cơ chế, quyền và trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, hài hòa với các quy định của quốc tế. Nhất là với việc chuyển đổi sang hình thức cấp số đăng ký lưu hành sản phẩm, với số đăng ký đã được cấp có giá trị trong năm 5 năm, DN có thể chủ động kinh doanh hoặc ủy quyền cho đơn vị đủ điều kiện khác khi đấu thầu cung cấp thiết bị y tế.

Đối với các hãng thiết bị, công ty lớn, quy định tại Nghị định 36/2016-NĐ-CP phù hợp theo thông lệ quốc tế nên tạo sự đồng nhất trong thực hiện cả trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, DN khi muốn NK sản phẩm vào Việt Nam chỉ cần số đăng ký lưu hành sản phẩm vào thị trường là được NK tự do, không hạn chế số lượng, số lần nhập khẩu và không phải xin phép NK khẩu theo chuyến như hiện nay. Đặc biệt, Nghị định cũng có quy định khuyến khích và có ưu đãi trong vấn đề sản xuất, kinh doanh các sản phẩm sản xuất trong nước cho các DN, cụ thể chính sách về đất, thuế DN, thuế doanh thu…

Việc quản lý thiết bị y tế được thực hiện theo 4 loại A, B, C và D, song hiện việc cấp và có hiệu lực của số lưu hành mới được thực hiện với nhóm A, còn nhóm B, C, D, Bộ Y tế đã có đề xuất Chính phủ lùi thời hạn đến ngày 1/1/2019 thay vì ngày 1/1/2018 như quy định. Đề xuất này vừa được Chính phủ chấp nhận, vậy thời gian 1 năm tới, Bộ Y tế sẽ tiến hành công việc cụ thể ra sao để việc thực hiện được đạt kết quả cao nhất?

Sau hơn 1 năm thực hiện quản lý thiết bị y tế theo Nghị định 36/2016/NĐ-CP, qua công tác sơ kết thực hiện với hai Sở Y tế có số DN sản xuất, kinh doanh trang thiết bị y tế lớn trong cả nước là TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh vừa qua cho thấy, các Sở đã triển khai thực hiện tốt công tác quản lý trên địa bàn thông qua việc tiếp nhận và công bố ba (03) thủ tục hành chính được phân quyền, tiếp nhận và xử lý hồ sơ công bố tiêu chuẩn áp dụng đối với hàng nghìn hồ sơ thiết bị y tế loại A. Đối với trang thiết bị y tế loại B, C, D, Bộ Y tế đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị cấp số đăng ký lưu hành và đang khẩn trương tiến hành các thủ tục để có thể cấp phép lưu hành đối với trang thiết bị y tế này theo quy định có hiệu lực vào ngày 1/1/2018. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh một số vướng mắc.

Theo đó, việc tiếp nhận hồ sơ, thẩm định và cấp phép lưu hành (theo quy định tại Điều 58 của Nghị định số 36/2016/NĐ-CP) được thực hiện trực tuyến trên giao diện phần mềm và triển khai theo hình thức dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4, kết nối liên thông theo Cơ chế một cửa quốc gia. Đây cũng là lần đầu tiên thực hiện việc cấp phép lưu hành đối với trang thiết bị y tế theo cơ chế liên thông một cửa quốc gia nên không thể tránh khỏi các lỗi phát sinh cần chỉnh sửa để đáp ứng yêu cầu chuyên môn, làm ảnh hưởng đến tiến độ, thời gian thẩm định hồ sơ cấp đăng ký lưu hành.

Thêm vào đó, hiện Bộ Y tế vẫn chưa thể thực hiện được việc kết nối các dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đối với đăng ký lưu hành trang thiết bị y tế loại B, C, D trên Cổng thông tin một cửa quốc gia theo như kế hoạch đã thống nhất với Tổng cục Hải quan để đáp ứng yêu cầu mốc thời gian từ ngày 1/1/2018.

Ngoài ra, trong thời gian qua Bộ Y tế cũng nhận được nhiều kiến nghị, đề xuất của đại diện các DN như Hiệp hội Kinh doanh ASEAN – Hoa Kỳ, Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCharm) phản ánh các khó khăn không đủ thời gian chuẩn bị hồ sơ, công chứng tài liệu theo quy định.

Ngày 11/10/2017, Bộ Y tế nhận được Công văn số 310/2017/MOH/EUC- MDDSC của EuroCharm nêu một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình chuẩn bị và thực hiện đăng ký lưu hành cho trang thiết bị y tế loại B, C, D. Theo đó, nếu chỉ tính riêng số sản phẩm mà 15 Công ty trong nhóm EuroCharm đang thực hiện việc kinh doanh thì đã hơn 40.000 sản phẩm tương ứng với khoảng 4.000 số đăng ký lưu hành thiết bị y tế loại B, C, D và rất khó có thể hoàn thành việc chuẩn bị hồ sơ đăng ký lưu hành trong 4 tháng. Sở dĩ như vậy là do chủ sở hữu không thể cung cấp kịp thông tin, tài liệu theo quy định để nộp do số lượng hồ sơ nhiều và yêu cầu giữa các nước có sự khác nhau trên thế giới và nhân lực tại các công ty không đáp ứng được việc chuẩn bị hồ sơ do số lượng hồ sơ lớn và phải dịch tài liệu hướng dẫn sử dụng sang tiếng Việt, chuẩn bị mẫu nhãn, tài liệu pháp lý…

Xuất phát từ các lý do nêu trên, để bảo đảm tính ổn định của thị trường trang thiết bị y tế, không làm ảnh hưởng đến việc cung cấp trang thiết bị y tế cho các bệnh viện, cơ sở y tế và tạo điều kiện để các DN và cơ quan quản lý có đủ thời gian chuẩn bị triển khai việc cấp số đăng ký lưu hành trang thiết bị y tế theo Cơ chế Hải quan một cửa quốc gia và ứng dụng công nghệ thông tin cấp độ 4, Bộ Y tế thống nhất với đề nghị của các DN nên có đề xuất gửi Chính phủ cho phép lùi thời gian cấp và có hiệu lực của số lưu hành đối với trang thiết bị y tế loại B, C, D đến ngày 1/1/2019 thay vì ngày 1/1/2018 như quy định tại Nghị định 36/2016/NĐ-CP.

Để thực hiện Nghị quyết 131/NQ-CP của Chính phủ, theo lộ trình đưa ra sẽ còn rất nhiều việc phải làm song với những việc cụ thể mà Vụ Trang thiết bị và Công trình y tế đang thực hiện một cách quyết liệt, khẩn trương thời gian qua, chúng tôi cho rằng đến thời điểm ngày 1/1/2019 việc cấp số lưu hành với thiết bị y tế loại B, C, D sẽ được thực hiện thông suốt, hỗ trợ tích cực các DN, đảm bảo không để vì lý do này mà thiếu các trang thiết bị y tế phục vụ công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế.

Thời gian qua chủ đề đảm bảo an toàn trong sử dụng trang thiết bị y tế được nhắc tới nhiều đặc biệt là sau sự cố chạy thận tại Bệnh viện Đa khoa Hòa Bình. Nhiều người cho rằng điều này có “lỗi” hệ thống, ông có bình luận gì về ý kiến này và để việc sử dụng thiết bị y tế an toàn, Bộ sẽ có giải pháp gì thời gian tới?

Để quản lý trang thiết bị y tế, thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng và lãnh đạo Bộ Y tế, Vụ Trang thiết bị và công trình y tế tiếp tục kiểm tra, chỉ đạo các bệnh viện trong cả nước nghiêm túc nghiên cứu thực hiện quy định tại Nghị định số 36/2016/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế, trong đó có các điểm, các nội dung quy định rõ vai trò, trách nhiệm các bên liên quan trong quản lý sử dụng trang thiết bị y tế.

Bộ Y tế cũng đã có công văn gửi UBND và sở y tế các tỉnh, TP trực thuộc trung ương đề nghị tăng cường kiểm tra công tác quản lý đầu tư khai thác sử dụng trang thiết bị y tế và cũng đã trực tiếp đi kiểm tra tại một số đơn vị, bệnh viện; đồng thời, tổ chức nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, tập huấn cho 63 tỉnh, thành phố và các đơn vị trực thuộc để phổ biến các quy định của pháp luật, chấn chỉnh các hoạt động đầu tư, quản lý khai thác sử dụng trang thiết bị y tế trong phạm vi cả nước.

Với đặc thù lĩnh vực trang thiết bị y tế rất đa dạng, nhiều chủng loại, tính năng công dụng khác nhau và phân cấp cho nhiều cơ quan quản lý nên để đảm bảo an toàn cần có sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các bên liên quan trong các khâu quản lý đầu tư, sử dụng vận hành, kiểm tra hiệu chuẩn… mới có thể làm tốt được. Qua đây cũng cần nhận thức đúng, rõ trách nhiệm trong công tác đảm bảo chất lượng trang thiết bị y tế nói chung và trách nhiệm đảm bảo an toàn trong khai thác sử dụng cho người bệnh.

Thực tế cho thấy an toàn trang thiết bị y tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó ngoài yếu tố về nguồn gốc xuất xứ, chất lượng của thiết bị, an toàn cho người bệnh còn phụ thuộc rất nhiều vào công tác quản lý tại cơ sở, bệnh viện như: việc ban hành, kiểm tra giám sát và thực hiện các quy chế, quy trình chuyên môn, quản lý chất lượng của từng cơ sở y tế và trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ kỹ thuật, nhân viên quản lý sử dụng, điều kiện lắp đặt vận hành, bảo trì, bảo dưỡng thiết bị y tế. Nếu mỗi khâu đều làm “tròn vai” thì việc đảm bảo an toàn trang thiết bị y tế sẽ đạt kết quả cao nhất.

Xin cảm ơn ông!

D.Ngân (thực hiện)

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn

XUẤT KHẨU CÁ TRA SANG MỸ DỰ KIẾN ỔN ĐỊNH ĐẾN THÁNG 3/2018

(HQ Online)- Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết: Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) sẽ rà soát bản câu hỏi đánh giá tương đương (SRT) cho sản phẩm cá họ Siluriformes và các tài liệu khác do các quốc gia đệ trình, và sẽ xem xét tiến độ thanh tra ở cấp quốc gia trước ngày 1/3/2018.

Chế biến cá tra xuất khẩu.

Quy định của USDA về đánh giá tương đương cho sản phẩm cá họ Siluriformes đồng nghĩa với việc các nước đang tìm cách tiếp tục XK các sản phẩm cá tra sang Mỹ phải nộp tài liệu chứng minh sản phẩm cá tra được sản xuất, chế biến tại các quốc gia đó tương đương với hệ thống của Mỹ trước ngày 1/9/2017.

Theo các nguồn tin, doanh thu cá tra trong giai đoạn từ 1/9/2017 đến trước tháng 3/2018 dự kiến vẫn ổn định, vì đây là khoảng thời gian mà USDA rà soát tất cả các tài liệu đệ trình.

Trong khi đó, 100% cá tra XK của Việt Nam đã được thanh tra tại biên giới Mỹ, kể từ ngày 2/8/2017.

Ông Don Kelley, giám đốc phụ trách mua sắm của công ty NK Mỹ Western Edge Seafood, cho rằng vào tháng 8/2017, giá cá tra trên thị trường đang ở mức 2,05 – 2,15 USD/pao.

Mức giá tăng là do các chi phí liên quan đến USDA chứ không phải là chi phí nguyên liệu trong khi nguồn cung cá tra trong thời gian này giảm. 

Nếu quyết định của USDA được thực hiện từ tháng 3/2018, điều đó có nghĩa là thuế quan đối với một số công ty sẽ tăng. Tuy vậy, ngành cá tra Việt Nam vẫn còn hy vọng đảo ngược lại tình thế.

Mỹ hiện vẫn là thị trường xuất khẩu cá tra lớn nhất, chiếm 22% thị phần xuất khẩu cá tra Việt Nam và cũng là thị trường có giá bán cao nhất. Việc Mỹ đưa ra các phán quyết bất lợi, nếu có, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tiêu thụ cá tra Việt Nam tại thị trường này.

Lê Thu

THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HẤP DẪN CÁC DOANH NGHIỆP AUSTRALIA

Điều kiện chính trị ổn định, thị trường ngày càng năng động cùng những chính sách ưu đãi đang hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài trong đó có Australia.

Một dự án đầu tư lớn của Úc tại Việt Nam. Ảnh: Internet.

Việt Nam hiện là thị trường thứ 2 mà doanh nghiệp Australia lựa chọn đầu tư kinh doanh. Đây là khẳng định của đại diện Hội đồng doanh nghiệp Australia – Việt Nam tại Hội nghị Triển lãm Thương mai và Đầu tư Australia và Việt Nam diễn ra chiều 11/6 tại Hà Nội.

Với hơn 70 doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực bao gồm bất động sản, tài chính, công nghệ cao, môi trường, nông nghiệp và giáo dục… của phái đoàn doanh nghiệp Australia tới Việt Nam nhằm tìm kiếm cơ hội hợp tác với các đối tác của Việt Nam cũng như tìm hiểu môi trường đầu tư Việt Nam.

Hiện nay, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 2 khu vực Đông Nam Á về mức độ hấp dẫn đầu tư đối với doanh nghiệp Australia chỉ sau Indonesia do Việt Nam có điều kiện chính trị ổn định, thị trường ngày càng năng động, đặc biệt chính phủ mới có nhiều chính sách ưu đãi và hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội làm ăn tại Việt Nam. Trong những năm qua, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam – Australia ngày một tăng cao, năm 2016, kim ngạch 2 chiều đạt 5,26%.

Đại diện doanh nghiệp Australia cho rằng, bên cạnh việc nâng cao chất lượng hàng hóa sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam cần tìm kiếm đối tác tốt tại Australia để thâm nhập vào thị trường này hiệu quả hơn.

Hội nghị Triển lãm Thương mại và Đầu tư và Việt Nam là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam xúc tiến chuyển giao công nghệ, thương mại hóa sản phẩm, kết nối đầu tư, thúc đẩy truyền thông và góp phần tăng cường giao lưu, liên kết quốc tế, tạo điều kiện để Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực có nhiều tiềm năng.

Theo Vov.vn

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn/

GỠ VƯỚNG CHO DOANH NGHIỆP VỀ ƯU ĐÃI, ÂN HẠN THUẾ

(HQ Online)- Nhằm hỗ trợ, trao đổi, hướng dẫn giúp cộng đồng DN hiểu sâu hơn về thủ tục hải quan, thuế, Tổng cục Hải quan đã ghi nhận và hướng dẫn cụ thể một số vướng mắc về ưu đãi, ân hạn thuế mà nhiều DN đang vướng mắc, quan tâm.

CBCC Hải quan Lạng Sơn hướng dẫn DN làm thủ tục hải quan. Ảnh: H.Nụ.

Hiệp hội DN Thanh Hóa hỏi: Đối với nguyên liệu phục vụ y tế mà cụ thể là dung dịch chạy thận (NaCl) NK có được ưu đãi thuế không? Nếu được ưu đãi DN phải làm thủ tục gì?

Theo Tổng cục Hải quan, tại khoản 14 Điều 16 Luật Thuế XK, thuế NK quy định: “Nguyên liệu, vật tư, linh kiện NK trong nước chưa sản xuất được của dự án đầu tư để sản xuất, lắp ráp trang thiết bị y tế được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo được miễn thuế NK trong thời hạn 5 năm, kể từ khi bắt đầu sản xuất”.

Cũng tại khoản 1, 3 Điều 23 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP của Chính phủ về miễn thuế nguyên liệu, vật tư, linh kiện NK để sản xuất, lắp ráp trang thiết bị y tế quy định Danh mục sản phẩm trang thiết bị y tế được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo quy định tại Phụ lục VI ban hành kèm theo Nghị định này. Căn cứ để xác định hàng hóa trong nước chưa sản xuất được thực hiện theo quy định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Đối chiếu các quy định nêu trên, Tổng cục Hải quan cho biết, trường hợp của DN không thuộc trường hợp được miễn thuế NK theo quy định.

Công ty TNHH Fabchem Vina thắc mắc trường hợp nộp thừa thuế NK hết thời gian ân hạn 275 ngày, nếu DN nộp thừa thuế NK nguyên liệu quá 275 ngày thì sau ngày 1/9/2016, DN có phát sinh thuế NK phải nộp của tờ khai nhập kinh doanh, hoặc bất kỳ tờ khai nào phát sinh thuế NK phải nộp, đồng thời mở tờ khai tại chi cục hải quan khác chi cục hải quan DN đã đăng ký thì có được bù trừ khoản tiền thuế NK nộp thừa không?

Liên quan đến thắc mắc của DN, Tổng cục Hải quan cho biết, theo Điều 132 Thông tư 38/2015/TT-BTC, không quy định việc bù trừ vào số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của lần nộp kế tiếp theo chỉ được thực hiện tại nơi người nộp thuế có số tiền thuế được hoàn. Tuy nhiên, việc bù trừ cho số nợ tại đơn vị hải quan khác được thực hiện khi người nộp thuế không còn nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nào khác tại nơi ra quyết định hoàn thuế.

Công ty TNHH Kim loại Việt Phong đang lúng túng và xin được hướng dẫn quy trình thủ tục, hồ sơ hoàn thuế đối với  hàng hóa XK để gia công sau đó NK có được miễn thuế XK và thuế NK tính trên phần giá trị của nguyên vật liệu cấu thành sản phẩm gia công không? Nguyên liệu DN đã xuất đi gia công và đã được nhập về dưới dạng sản phẩm sau gia công NK thì có được làm hồ sơ và công văn xin không thu thuế cho phần nguyên liệu đã xuất đi đã được nhập về hay không? Hồ sơ, thủ tục như thế nào? Trong trường hợp phải đóng thuế XK khi làm thủ tục hải quan XK nguyên liệu đi gia công nước ngoài thì có được hoàn thuế XK sau khi đã NK sản phẩm sau gia công hay không? DN cũng thắc mắc, vì sao, sau ngày 1/9/2016 không tiếp tục tạo điều kiện cho hoạt động theo loại hình này phát triển mà sản phẩm XK theo loại hình sản xuất XK phải chịu thuế XK nếu mặt hàng có thuế?

Hướng dẫn các vấn đề DN còn lúng túng trong thực hiện quy trình, thủ tục, hồ sơ hoàn thuế, Tổng cục Hải quan cho biết, chính sách thuế đối với hàng hóa XK để gia công đã được quy định tại khoản 6 Điều 16 Luật thuế XK, thuế NK, Nghị định số 134/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “Hàng hóa XK để gia công là tài nguyên, khoáng sản, sản phẩm có tổng giá trị tài nguyên, khoảng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên và hàng hóa XK để gia công thuộc đối tượng chịu thuế XK thì không được miễn thuế XK”. Theo đó, hàng hóa XK để gia công thuộc đối tượng chịu thuế XK thì người khai hải quan phải báo và nộp thuế XK theo mức thuế suất XK quy định tại Biểu thuế XK ban hành kèm theo Nghị định số 122/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Nhấn mạnh về vấn đề này, Tổng cục Hải quan cho biết thêm, thời gian qua, đơn vị đã nhận được phản ánh vướng mắc của một số DN về việc áp dụng chính sách thuế đối với hàng hóa XK để gia công, Tổng cục Hải quan đang tổng hợp báo cáo cấp có thẩm quyền và sẽ trả lời các DN có vướng mắc, kiến nghị.

Liên quan đến thắc mắc của DN về miễn thuế, theo Tổng cục Hải quan các trường hợp miễn thuế đã được quy định tại Điều 16 Luật thuế XK, thuế NK, trong đó miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện NK để sản xuất hàng hóa XK được quy định tại khoản 7 Điều 16 Luật thuế XK, thuế NK. Theo đó, không quy định miễn thuế XK đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu NK.

Công ty TNHH MTV Đóng tàu và công nghiệp hàng hải Sài Gòn đề nghị có chính sách miễn thuế NK các loại máy móc, thiết bị, vật tư, phụ tùng phục vụ đóng tàu và sửa chữa mà trong nước chưa sản xuất được nhưng chưa được các tổ chức hàng hải quốc tế cấp chứng chỉ phù hợp.

Việc miễn thuế hàng hóa NK phục vụ hoạt động đóng tàu, tàu biển XK, Tổng cục Hải quan cho biết đã được quy định tại Điều 16 Luật Thuế XK, thuế NK, Điều 17 Nghị định số 134/2016/NĐ-CP của Chính phủ.

Việc bổ sung chính sách miễn thuế NK trường hợp các loại máy móc, thiết bị, vật tư, phụ tùng phục vụ đóng tàu và sửa chữa trong nước chưa sản xuất được nhưng được các tổ chức hàng hải quốc tế cấp chứng chỉ phù hợp, Tổng cục Hải quan ghi nhận và để có cơ sở báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định, đề nghị DN bổ sung hồ sơ, tài liệu liên quan.

Công ty CP Bao bì Tín Thành phản ánh, DN bán bao bì nhựa cho Công ty Phú Khánh (DN được Tổng cục Hải quan ra quyết định là cửa hàng miễn thuế nằm trong khu cách ly sân bay Cam Ranh) bao bì sẽ sử dụng trong cửa hàng miễn thuế. Hiện nay cả DN và Công ty Phú Khánh đã tham vấn hải quan và chi cục thuế địa phương nhưng chưa thống nhất về thủ tục hải quan và có được miễn thuế hay không? Vậy đề nghị, Tổng cục Hải quan cho biết những văn bản nào quy định, hướng dẫn về thủ tục hải quan và chính sách thuế về trường hợp đã nêu trên?

Về vấn đề DN phản ánh, Tổng cục Hải quan cho biết, tại điểm c khoản 3 Điều 1 Quy chế về kinh doanh hàng miễn thuế ban hành kèm theo Quyết định số 24/2009/QĐ-TTg ngày 17/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “Hàng hóa NK đã nộp thuế, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đưa vào bán tại cửa hàng miễn thuế được coi là hàng hóa XK và quản lý theo chế độ hàng tạm xuất; được lưu lại tại cửa hàng miễn thuế trong thời hạn không quá 365 ngày, kể từ ngày hoàn thành thủ tục hải quan đối với lô hàng XK”. Cũng tại khoản 1 và 2 Điều 4 Quy chế về kinh doanh hàng miễn thuế ban hành kèm theo Quyết định số 24/2009/QĐ-TTg ngày 17/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “1. Hàng hóa bán tại cửa hàng miễn thuế không thuộc đối tượng chịu thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị gia tăng; được miễn thuế nhập khẩu nếu là hàng nhập khẩu. 2. Hàng hóa nhập khẩu đã nộp thuế, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đưa vào bán tại cửa hàng miễn thuế được hoàn lại thuế theo quy định của pháp luật hiện hành”.

Về thủ tục hải quan, đề nghị DN thực hiện theo quy định tại Điều 15 Thông tư số 148/2013/TT-BTC ngày 25/10/2013 của Bộ Tài chính.

Tuy nhiên, Tổng cục Hải quan nhấn mạnh, do DN trình bày chưa rõ, chưa cụ thể số bao bì trên DN bán cho công ty kinh doanh hàng miễn thuế để bán cho khách mua hàng miễn thuế hay sử dụng vào mục đích khác, do vậy Tổng cục Hải quan cung cấp quy định pháp luật trên để DN tham khảo, nghiên cứu.

Đảo Lê

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn

KHÔNG KIỂM TRA CHUYÊN NGÀNH CHỒNG CHÉO ĐỐI VỚI MỘT MẶT HÀNG

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ vừa giao các bộ liên quan phối hợp với cơ quan chức năng rà soát, thống nhất Danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành theo hướng không chồng chéo.

Kiểm tra chuyên ngành chiếm khoảng 70% thời gian làm thủ tục thông quan của doanh nghiệp. Ảnh minh hoạ

Cụ thể, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ giao Bộ Khoa học và Công nghệ, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn theo chức năng, nhiệm vụ được phân công phải phối hợp với cơ quan chức năng rà soát thống nhất Danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành theo hướng không chồng chéo đối với cùng một mặt hàng phải qua kiểm tra của nhiều cơ quan.

Phó Thủ tướng cũng giao các Bộ quản lý chuyên ngành liên quan khẩn trương ban hành Danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành tại khâu thông quan theo đúng Nghị quyết số 19/2017/NQ-CP ngày 6/2/2017 của Chính phủ.

Đồng thời các bộ này phối hợp với bộ Công Thương, Tài chính, Tư pháp và cơ quan liên quan rà soát, làm rõ căn cứ pháp lý và mục đích yêu cầu của từng loại giấy tờ kiểm tra chuyên ngành. Trường hợp xác định loại chứng từ có tên gọi khác nhau nhưng bản chất nội dung kiểm tra tương tự nhau thì sửa đổi, điều chỉnh theo hướng thống nhất dùng một loại chứng từ để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.

Phó Thủ tướng yêu cầu các Bộ, cơ quan liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện các công việc trên trong tháng 6 này.

Trước đó, để thống nhất việc đổi mới kiểm tra chuyên ngành phù hợp theo hướng giảm các loại giấy tờ, chứng nhận nhưng vẫn bảo đảm kiểm soát chặt chẽ, đầy đủ các chỉ tiêu, yêu cầu cần thiết về chất lượng, an toàn thực phẩm, kiểm dịch, môi trường, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã giao Bộ Tài chính rà soát các mặt hàng xuất nhập khẩu hiện đang phải thực hiện cùng lúc nhiều thủ tục, cấp nhiều chứng từ kiểm tra chuyên ngành.

Theo báo cáo Bộ Tài chính, văn bản quy phạm pháp luật về kiểm tra chuyên ngành nhiều nhưng có lĩnh vực chưa đầy đủ, còn có sự chồng chéo trong quản lý và kiểm tra chuyên ngành.

Một mặt hàng chịu nhiều hình thức quản lý

Qua rà soát cho thấy có nhiều mặt hàng nhập khẩu phải đồng thời chịu nhiều hình thức quản lý, kiểm tra chuyên ngành do một bộ hoặc nhiều bộ quy định. Chẳng hạn, mặt hàng sữa chua, pho-mát phải chịu sự quản lý và kiểm tra chuyên ngành của hai bộ, vừa phải kiểm dịch động vật, vừa phải kiểm tra an toàn thực phẩm. Hay như các giống cây trồng, gạch, đá, kính phải kiểm tra chất lượng và cấp Giấy chứng nhận hợp quy; trang thiết bị y tế, thuốc, nguyên liệu sản xuất thuốc… vừa xin giấy phép nhập khẩu, vừa kiểm tra chất lượng.

Thậm chí mặt hàng phân bón phải chịu 3 loại quản lý/kiểm tra, gồm giấy phép nhập khẩu tự động, kiểm tra chất lượng, chứng nhận hợp quy.

Bên cạnh đó, có trường hợp một mặt hàng nhưng lại chịu nhiều hình thức quản lý của cùng một bộ quản lý chuyên ngành. Ví dụ mặt hàng kén tằm vừa phải kiểm dịch động vật và kiểm dịch thực vật; thịt và các sản phẩm từ thịt vừa phải kiểm dịch động vật, kiểm tra chất lượng, vừa phải kiểm tra an toàn thực phẩm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Mặt hàng thuốc và nguyên liệu sản xuất thuốc, trang thiết bị y tế vừa xin giấy phép nhập khẩu, vừa phải kiểm tra chất lượng của Bộ Y tế. Nồi hơi vừa phải kiểm tra tiêu chuẩn, điều kiện nhập khẩu và kiểm tra chất lượng/an toàn lao động. Đây cũng là mặt hàng chịu cùng một hình thức quản lý/kiểm tra của hai Bộ quản lý chuyên ngành, trong đó, Bộ Công Thương và Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội cùng kiểm tra chất lượng, Bộ Công Thương kiểm tra hiệu suất năng lượng.

Bộ Tài chính cho rằng việc nhiều bộ, ngành áp dụng cùng lúc nhiều chế độ, phương thức quản lý khác nhau đối với một mặt hàng  xuất khẩu, nhập khẩu không chỉ gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm giảm năng lực cạnh tranh và mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp; làm phát sinh thủ tục hành chính, kéo dài thời gian thông quan, tăng biên chế của cơ quan quản lý, lãng phí ngân sách nhà nước mà đôi khi còn gây khó khăn cho chính cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thông quan hàng hóa.

Phương thức quản lý chưa thống nhất

Nguyên nhân của tình trạng chồng chéo trong hoạt động kiểm tra chuyên ngành được Bộ Tài chính chỉ ra là do các bộ quản lý chuyên ngành chưa thống nhất trong phương thức quản lý; khi ban hành chưa đánh giá tác động đầy đủ. Danh mục hàng hóa thuộc diện phải kiểm tra quá rộng, không chi tiết tên hàng, không có mã số HS. Nhiều văn bản ban hành đã lâu, không còn phù hợp với thực tế nhưng chưa được bãi bỏ.

Các chế độ quản lý, kiểm tra đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu của các bộ, ngành quy định không thống nhất (về thủ tục, cách thức thực hiện), dẫn đến có nhiều loại chứng từ do các bộ quản lý chuyên ngành cấp cho hàng hóa xuất, nhập khẩu, nhưng không rõ chứng từ nào là giấy phép, giấy chứng nhận điều kiện xuất, nhập khẩu, giấy phép tự động, chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy, công bố sự phù hợp, xác nhận khai báo hóa chất…

Theo Nghị quyết số 19/2017/NQ-CP của Chính phủ, trong quý I/2017, các bộ phải ban hành Danh mục hàng hóa xuất, nhập khẩu thuộc đối tượng kiểm tra chuyên ngành tại khâu thông quan theo hướng kiểm tra ít nhất có thể, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời gian kiểm tra; chuyển mạnh sang hậu kiểm; rà soát, sửa đổi các quy định về tiếp nhận công bố hợp quy đối với hàng hóa nhập khẩu theo hướng bãi bỏ hoặc đơn giản hóa thủ tục; không yêu cầu tiếp nhận công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa chưa có quy chuẩn quốc gia…

Tuy nhiên, Bộ Tài chính cho biết, đến nay chưa có bộ nào ban hành Danh mục hàng hóa theo hướng rút gọn mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành tại khâu thông quan.

Theo Chinhphu.vn

CÔNG KHAI DANH TÍNH 13 DOANH NGHIỆP UAE CÓ DẤU HIỆU LỪA ĐẢO

(HQ Online)-  Trong số 13 doanh nghiệp nhập khẩu trái cây tại UAE, có nhiều doanh nghiệp từng bị kiện ra tòa với lý do không thanh toán tiền cho bên xuất khẩu.

Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần lưu ý danh sách các doanh nghiệp này. Ảnh internet.

Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại UAE mới có thông báo đến tất cả các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh mặt hàng trái cây xuất khẩu sang Dubai danh sách một số doanh nghiệp nhập khẩu trái cây có dấu hiệu lừa đảo tại UAE.

Danh sách 13 doanh nghiệp này gồm: Green Belt Food Stuff; Diamond Empire General Trading; Vintage International F.Z.C.; Mohammad Mehdi General Trading; Onion Food Stuff Trading; Khushi Trading; Olwen International FZC; Red Fort Trading; Season Food Stuff Trading; Lassani Food Stuff Trading; Mahak Gulf Trading; Takbeer Trading và công ty Floral Fruit.

Trong số 13 doanh nghiệp, có nhiều doanh nghiệp đã bị kiện ra tòa với lý do không thanh toán tiền cho bên xuất khẩu.

Trước đó, Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại UAE cũng đã nhận được rất nhiều các khiếu nại và đề nghị hỗ trợ từ các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm trái cây của Việt Nam sang UAE đối với một số công ty nhập khẩu tại Dubai. 

Theo đó, các hình thức lừa đảo, gian lận thương mại được thực hiện theo từng bước. Trước tiên, doanh nghiệp giao dịch với doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam và thuyết phục ký hợp đồng xuất khẩu trái cây như chanh, chuối… với phương thức thanh toán là 50% trả tiền sau khi nhận bản scan chứng từ gửi hàng và 50% thanh toán sau khi nhận được hàng đúng chất lượng (thậm chí là sau khi nhận hàng 15 ngày), viện lý do đây là thông lệ kinh doanh của mặt hàng trái cây, rau quả tại Dubai (người bán cho người mua nợ tiền).

Sau khi nhận bản scan chứng từ,công ty UAE gửi thông tin cho doanh nghiệp Việt Nam để lấy chứng từ gốc, sau đó liên tục lấy lý do trục trặc ngân hàng để lấp liếm việc phát hành thanh toán giả, trì hoãn việc thanh toán (thậm chí là cả khoản 50% đầu tiên). 

Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bị chậm trả lên đến 6 tháng đến 1 năm, thậm chí sang tận nơi để đòi tiền nhưng cũng không giải quyết được do doanh nghiệp UAE cố tình lẩn tránh hoặc dùng thủ đoạn câu giờ.

Bước tiếp theo, khi nhận hàng, công ty UAE cũng dùng thủ thuật tráo hàng chất lượng kém, khiếu nại doanh nghiệp Việt Nam mà không có bất cứ giấy tờ giám định chất lượng hàng.

Phan Thu

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn/

THU GẦN 50 TỶ USD, DOANH NGHIỆP FDI ÁP ĐẢO VỀ XUẤT KHẨU

(HQ Online)- 49,398 tỷ USD là tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chiếm khoảng 71% tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đây là trị giá kim ngạch xuất khẩu tính đến 15/5, theo thông tin mới từ Tổng cục Hải quan.

Sản xuất điện thoại tại Samsung Bắc Ninh. Ảnh: T.Bình.

Đáng chú ý, so với cùng kỳ năm ngoái, tỉ trọng về giá trị kim ngạch của doanh nghiệp FDI đã tăng thêm 1 điểm phần trăm (cùng kỳ chiếm khoảng 70%).

Với tốc độ tăng trưởng 19%, giới doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đạt mức tăng cao hơn tốc độ bình quân chung cả nước (cả nước đạt 17,6%).

Sự tăng trưởng mạnh về doanh nghiệp FDI là điều dễ hiểu khi giới doanh nghiệp này đang nắm thế áp đảo ở những lĩnh vực xuất khẩu chủ lực của nước ta như điện thoại và máy vi tính, hàng điện tử…

Mặt khác, như ở Chương trình doanh nghiệp ưu tiên trong lĩnh vực Hải quan (dành cho doanh nghiệp xuất khẩu lớn, uy tín) cũng có đến 35/60 doanh nghiệp là doanh nghiệp FDI.

Biểu đồ tỉ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp FDI trong cơ cấu xuất khẩu chung của cả nước tính hết 15/5. Ảnh: T.Bình.

Hoặc ở nhiều địa phương xuất khẩu lớn hiện nay như Bắc Ninh, Thái Nguyên, Bình Dương, Đồng Nai… trị giá kim ngạch hầu hết phụ thuộc vào giới doanh nghiệp FDI.

Đơn cử như trường hợp của Thái Nguyên, trước khi có sự xuất hiện của Samsung, địa phương này gần như không mấy tên tuổi trên “bản đồ” xuất khẩu của nước ta.

Nhưng hiện nay, Thái Nguyên đã vươn lên mạnh mẽ thành địa phương đứng thứ 2/63 tỉnh, thành phố cả nước (sau TP.HCM) về trị giá kim ngạch xuất khẩu.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hảo- Trưởng Phòng quản lý xuất nhập khẩu và Hội nhập kinh tế quốc tế (Sở Công Thương Thái Nguyên) cho hay, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực ở Thái Nguyên là điện thoại, linh kiện điện thoại, máy tính bảng của Tập đoàn Samsung…

Theo bà Nguyễn Thị Thanh Hảo, sự lên ngôi ngoạn mục trong hoạt động xuất khẩu của Thái Nguyên những năm gần đây chính là nhờ hiệu quả trong hoạt động đầu tư của Tập đoàn Samsung.

“Các lĩnh vực xuất khẩu truyền thống của địa phương cũng có sự cải thiện, tăng trưởng nhưng không thể tạo được sự đột phá như vừa qua nếu không có sự góp mặt của Tập đoàn Samsung”- lãnh đạo Phòng quản lý xuất nhập khẩu và Hội nhập kinh tế quốc tế, chia sẻ.

Thái Bình

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn/

HOÀN THIỆN PHÁP LÝ ĐỂ MỞ RỘNG KẾT NỐI HẢI QUAN VỚI DOANH NGHIỆP KHO, BÃI, CẢNG

(HQ Online)- Song song với việc hoàn thiện hệ thống CNTT, Tổng cục Hải quan sẽ hoàn thiện cơ sở pháp lý phục vụ việc mở rộng trao đổi, kết nối thông tin giữa cơ quan Hải quan với doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng phục vụ công tác giám sát hàng hóa XNK.

Đối tượng hàng hóa được phối hợp giám sát sẽ mở rộng thêm hàng rời, hàng lỏng. Trong ảnh: Hàng hóa nhập khẩu tại cảng Hoàng Diệu, Hải Phòng. Ảnh: T.Bình​​​.

Việc phối hợp, kết nối hệ thống CNTT giữa cơ quan Hải quan với doanh nghiệp kinh doanh cảng để giám sát hàng hóa XNK được Tổng cục Hải quan thực hiện từ tháng 9/2015 tại cảng Nam Hải Đình Vũ (Hải Phòng). Đến nay, có 9/14 cảng khu vực cảng biển Hải Phòng và cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), Cát Lái (TP.HCM) thực hiện nội dung này. Đối tượng đầu tiên được Tổng cục Hải quan lựa chọn triển khai kết nối để phối hợp giám sát hàng hóa XNK là doanh nghiệp kinh doanh cảng biển với đối tượng hàng hóa được vận chuyển bằng container. Sắp tới, Tổng cục Hải quan sẽ mở rộng đối tượng doanh nghiệp kết nối (thêm doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi) và đối tượng hàng hóa (hàng rời, hàng lỏng).

Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan (Tổng cục Hải quan) Âu Anh Tuấn đánh giá, quá trình triển khai vừa qua đạt kết quả khả quan nhưng vẫn phát sinh một số vướng mắc về CNTT và cơ sở pháp lý. Đơn cử, mỗi cảng biển, doanh nghiệp kinh doanh cảng có đặc thù khác, mặt hàng, cũng như CNTT và chỉ tiêu thông tin quản lý khác nhau… Vì vậy, hệ thống CNTT, các chỉ tiêu thông tin áp dụng tại cảng này chưa chắc phù hợp hoàn toàn với cảng khác, áp dụng đúng với đặc thù mặt hàng này chưa chắc đúng với mặt hàng khác…

Mặt khác, cơ sở pháp lý quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng biển trong giám sát hải quan (giám sát hàng hóa XNK) đã được hướng dẫn cụ thể tại Điều 34 Nghị định 08/2015/NĐ-CP và Điều 52 Thông tư 38/2015/TT-BTC. Tuy nhiên, quy định về chỉ tiêu thông tin sẽ trao đổi giữa cơ quan Hải quan và doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng còn chung chung, chưa cụ thể.

Ông Cao Hồng Phong- Phó Tổng giám đốc Công ty CP Cảng Nam Hải Đình Vũ (doanh nghiệp đầu tiên thực hiện phối hợp giám sát với cơ quan Hải quan) cho biết, quá trình phối hợp kết nối vừa qua giữa doanh nghiệp với Hải quan Hải Phòng diễn ra thuận lợi. Giải pháp này đã từng bước khẳng định hiệu quả trong đơn giản hóa thủ tục, giảm thời gian thông quan hàng hóa XNK, góp phần giúp cảng Nam Hải Đình Vũ tăng được sản lượng hàng hóa thông quan cảng từ 400.000 container năm 2015 lên 550.000 container năm 2016 và hết quý I/2017 đạt 200.000 container và dự kiến kết thúc năm nay là 750.000 container. Tuy nhiên, ông Cao Hồng Phong cũng bày tỏ băn khoăn thời gian tới hàng hóa được phối hợp giám sát sẽ mở rộng (hàng rời, hàng lỏng) là thách thức cho cả cơ quan Hải quan và doanh nghiệp, đòi hỏi phải có cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, hệ thống CNTT đảm bảo cho việc kết nối.

Theo ông Âu Anh Tuấn, để mở rộng hoạt động phối hợp giám sát, thời gian tới, bên cạnh việc hoàn thiện về hệ thống CNTT, Tổng cục Hải quan tiếp tục hoàn thiện về cơ sở pháp lý phục vụ việc kết nối, trao đổi thông tin để giám sát hàng hóa XNK giữa cơ quan Hải quan và doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng được thực hiện thuận lợi. Đồng thời, cơ sở pháp lý đang được hoàn thiện sẽ xây dựng theo hướng mở rộng việc áp dụng cho tất cả cảng biển, cảng hàng không và các cảng nội địa (ICD), kho ngoại quan, kho hàng lẻ (CFS), kho hàng không kéo dài, địa điểm tập kết hàng hóa XNK… trên toàn quốc. Theo ông Âu Anh Tuấn, các nội dung trên sẽ được đưa vào Thông tư sửa đổi Thông tư 38/2015/TT-BTC.

Tại Hội thảo “Triển khai giải pháp quản lý, giám sát hàng hóa XNK qua khu vực kho, bãi, cảng biển” do Tổng cục Hải quan tổ chức tại Hải Phòng tuần qua, để ghi nhận ý kiến đóng góp của các đơn vị hải quan địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, lãnh đạo Cục Giám sát quản lý về hải quan cho biết: Việc sửa đổi Thông tư 38 liên quan đến nội dung trên được thực hiện theo hướng, quy định trách nhiệm của tất cả các đối tượng tham gia vào quá trình vận chuyển, lưu giữ, giao nhận hàng hóa XNK đang chịu sự giám sát hải quan tại cảng, kho, bãi, địa điểm tập kết hàng hóa XNK. Đồng thời quy định rõ nguyên tắc kết nối, trao đổi thông tin và những thông tin cần trao đổi giữa cơ quan Hải quan và doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng…  

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Vũ Ngọc Anh:

Kết nối, trao đổi thông tin giữa cơ quan Hải quan và doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng để quản lý hàng hóa XNK là giải pháp quan trọng đang được ngành Hải quan tập trung thực hiện. Bởi thực tế việc ứng dụng CNTT phục vụ kết nối giữa cơ quan Hải quan với doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng vẫn còn hạn chế cần được đẩy mạnh trong thời gian tới.

Việc kết nối giữa cơ quan Hải quan với doanh nghiệp kinh doanh kho, bãi, cảng sẽ giúp giảm thời gian thông quan hàng hóa và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hải quan. Để thực hiện việc kết nối, thời gian qua Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo Cục Hải quan Hải Phòng thực hiện Đề án “Kiểm tra, giám sát hàng hóa qua khu vực kho, bãi, cảng Hải Phòng trên Hệ thống điện tử”.

Nhằm thực hiện việc kết nối trong thực tiễn được thực hiện một cách hiệu quả, Tổng cục Hải quan tổ chức Hội thảo nhằm ghi nhận ý kiến đóng góp rộng rãi của các đơn vị hải quan, nhất là từ cộng đồng doanh nghiệp.

Ngoài ý kiến đóng góp tại Hội thảo, quá trình chuẩn bị doanh nghiệp có phát sinh thêm ý kiến đóng góp có thể gửi về Cục CNTT và Thống kê Hải quan; Cục Giám sát quản lý về hải quan; Cục Hải quan Hải Phong; Báo Hải quan…

(Phát biểu tại Hội thảo “Triển khai giải pháp quản lý, giám sát hàng hóa XNK qua khu vực kho, bãi, cảng biển”)

Thái Bình

DOANH NGHIỆP MONG THỦ TỤC THÔNG QUAN THÔNG THOÁNG HƠN

(HQ Online)- Mặc dù ngành Hải quan đã đạt được nhiều kết quả về cải cách thủ tục và tinh thần phục vụ của cán bộ, công chức hải quan được cộng đồng DN ghi nhận, đánh giá cao, song vẫn còn những vướng mắc trong quá trình thông quan hàng hóa liên quan đến các bộ ngành, DN mong muốn được giải quyết thấu đáo.

Giám sát hải quan tại kho hàng không kéo dài (khu công nghiệp Yên Phong- Bắc Ninh). Ảnh: Thu Trang​​​.

Tăng phối hợp

Nghị quyết 19-2017/NQ-CP của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017, định hướng đến năm 2020 đặt ra yêu cầu rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục thông quan hàng hóa qua biên giới còn 70 giờ đối với hàng hóa XK, 90 giờ đối với hàng hóa NK.

Tuy nhiên, theo Hiệp hội DN logistics Việt Nam (VLA) thống kê năm 2016, thời gian làm thủ tục hàng hóa XK vẫn còn cao, lên tới 108 giờ và 138 giờ đối với hàng hóa NK. Thời gian vẫn còn cao rõ ràng không hoàn toàn thuộc về ngành Hải quan, bởi thời gian thực hiện thủ tục hải quan đối với một tờ khai/lô hàng tại cơ quan Hải quan chỉ chiếm khoảng 28% thời gian thông quan và không quá 1 ngày làm việc. Thời gian còn lại thuộc về DN và các cơ quan liên quan, trong đó các cơ quan quản lý chuyên ngành chiếm đến 72% thời gian thông quan hàng hóa.

Về vấn đề này, ông Nguyễn Tương, Phó Tổng thư ký VLA cho rằng, để giảm thời gian thông quan, việc cải thiện thủ tục kiểm tra chuyên ngành là vấn đề mấu chốt, nếu không các cố gắng của ngành Hải quan sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Một chuyên gia về thương mại còn cho rằng, trong công tác kiểm tra chuyên ngành, có cơ quan, bộ, ngành còn ra “oai” bằng việc đưa ra danh sách dài thủ tục, gây ảnh hưởng tới thủ tục hải quan.

Trong Báo cáo “Đánh giá cải cách thủ tục hành chính hải quan: Mức độ hài lòng của DN năm 2016”, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện, một số DN cho rằng về vấn đề kiểm tra chuyên ngành hiện có quá nhiều văn bản chồng chéo, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Hải quan và cơ quan quản lý chuyên ngành, có nhiều giấy phép con… Chính vì thế, không ít DN phản ánh những bức xúc như: Hàng hóa bị kiểm tra mất thời gian, chi phí khi sản phẩm DN mua về phải mang đi một lượng để kiểm tra, lấy mẫu, số hàng hóa còn lại không đủ cung ứng theo hợp đồng. Hoặc có DN cho hay, thông tin yêu cầu đăng ký không rõ ràng, khiến DN mất nhiều thời gian khai đi khai lại… Đây là những tồn tại lâu năm của DN đối với việc kiểm tra chuyên ngành cần được các cơ quan ngồi lại và phối hợp chặt chẽ với nhau hơn nữa.

Tăng phục vụ

“Định hướng cải cách thủ tục hành chính của ngành Hải quan đang đi đúng hướng, nhưng vẫn còn một số văn bản, quy định liên quan đến thông quan hàng hóa do chưa được DN tham gia góp ý đầy đủ nên có những vấn đề chưa sát với thực tế, dẫn đến tiêu cực, gây bức xúc cho DN”, ông Đặng Thế Lưỡng, Tổng thư ký Hiệp hội DN quận Hải An (Hải Phòng) cho hay.

Đại diện một DN hoạt động XNK vật liệu xây dựng tại Nghệ An cho biết, mặc dù việc thông quan đã áp dụng khai báo điện tử nhưng vào thời gian cao điểm, hệ thống này trở nên quá tải, từ đó phát sinh những khó khăn. Bên cạnh đó, mặc dù thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã có nhiều chỉ đạo về cải cách thủ tục hành chính, nhưng xuống tới các cục, chi cục và trực tiếp người thực hiện thì lại xảy ra vướng mắc, nhất là thái độ làm việc của công chức đối với DN, vẫn còn trường hợp chưa coi DN là đối tác.

Từ những vướng mắc này, ông Phan Thông, Tổng thư ký Hiệp hội Chủ hàng Việt Nam cho rằng, bên cạnh sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các bộ phận, ngành Hải quan nên có cơ chế giám sát chặt chẽ, nâng cao năng lực, trình độ và nhận thức của cán bộ, công chức toàn Ngành. Chi tiết hơn, vị này còn kiến nghị nên tăng chế độ lương thưởng cho cán bộ, công chức Hải quan bởi họ có khối lượng công việc nhiều, phải trực đêm, làm vào những ngày nghỉ, lễ Tết.

Cùng với vấn đề trên, bà Đặng Thị Bình An, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH Tư vấn thuế C&A cho biết, việc xử lý khiếu nại của DN cần được cải thiện hơn, cần có sự tách bạch để kiểm tra, tăng tính minh bạch và khách quan. Việc trả lời văn bản giải đáp cho DN được nhanh chóng và thường xuyên hơn.

Có thể thấy, những nỗ lực của ngành Hải quan cần được củng cố hơn nữa để đáp ứng nhu cầu và yêu cầu của DN, để DN thực sự đồng hành, là đối tác, là đối tượng để phục vụ. Tất nhiên, cùng với sự vào cuộc của các cơ quan chức năng, sự quyết tâm chính trị của ngành Hải quan thì các DN cũng cần sự thay đổi trong hoạt động với sự minh bạch, hồ sơ, giấy tờ được rõ ràng, sẵn sàng đứng lên đấu tranh trước những hành vi sai trái khi thực hiện thủ tục hành chính.

Hương Dịu

HẢI QUAN BÌNH DƯƠNG: TẬP HUẤN THỦ TỤC HẢI QUAN CHO LÃNH ĐẠO DN NHẬT BẢN

(HQ Online)-Ngày 4/5, Cục Hải quan Bình Dương phối hợp với Chi hội doanh nghiệp (DN) Nhật Bản tại Bình Dương tổ chức hội nghị tập huấn về thủ tục hải quan, chính sách thuế XNK… cho lãnh đạo DN Nhật Bản đầu tư tại Bình Dương. 

Lãnh đạo Cục Hải quan Bình Dương giải đáp thắc mắc của DN tại hội nghị. Ảnh T.D

Phó Cục trưởng Cục Hải quan Bình Dương Nguyễn Trường Giang cho biết, đây là một hoạt động nhằm đổi mới công tác đối thoại DN. Qua hội nghị này, sự tương tác giữa cơ quan Hải quan và lãnh đạo DN được nhiều hơn. Chủ DN sẽ được trực tiếp nghe giải đáp những vướng mắc về cơ chế, chính sách pháp luật liên quan đến thủ tục XNK… để thực hiện theo đúng quy định.

Tại hội nghị, đại diện Cục Hải quan Bình Dương đã phổ biến đến lãnh đạo các DN về các quy định, chính sách liên quan đến thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan; Lưu ý về các vướng mắc mà DN thường gặp phải có liên quan đến thuế XNK đối với hàng hóa gia công, sản xuất xuất khẩu trong thời gian qua; Quy định về cấp danh mục miễn thuế hàng hóa tạo tài sản cố định; Các quy định chung về phân tích, phân loại hàng hóa…

Chi cục kiểm tra sau thông quan cũng đã trình bày về một số quy định cũng như chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp thuộc diện doanh nghiệp ưu tiên. Một số lưu ý đối với doanh nghiệp trong việc sử dụng chữ kí số, cảnh báo một số sai phạm của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan tại Bình Dương để doanh nghiệp rút kinh nghiệm không để vướng phải… Phó Cục trưởng Cục Hải quan Bình Dương Nguyễn Trường Giang nhấn mạnh, việc kiểm tra của cơ quan Hải quan là hướng đến sự tuân thủ chứ không xử phạt. Theo đó, DN cần lưu ý trong công tác phối hợp thực hiện giữa các bộ phận để tránh để xảy ra sai sót.

Tại hội nghị, đại diện một số doanh nghiệp cũng đã trực tiếp nêu câu hỏi xoay quanh định mức sản xuất đối với hàng hóa gia công sản xuất, xuất khẩu. Cụ thể, DN cho biết, định mức thực tế không khai báo định mức với cơ quan Hải quan, chỉ xuất trình với cơ quan Hải quan trong quá trình kiểm tra báo cáo quyết toán, nhưng phần cảnh báo sai phạm thường xuyên của DN (phát hiện trong quá trình kiểm tra của cơ quan Hải quan) lại có hành vi lên định mức không đúng. 

Trả lời vướng mắc này của DN, Cục Hải quan Bình Dương cho biết, trong quá trình kiểm tra báo cáo quyết toán, cơ quan Hải quan sẽ kiểm tra tính chính xác của các định mức mà DN xuất trình, định mức này là định mức thực tế sản xuất tại DN. Tuy nhiên vì một lý do nào đó (như DN đã nhập thừa so với khai báo, xuất thiếu so với khai báo, hoặc trong quá trình quản lý nguyên phụ liệu tại DN do việc quản lý không được chặt chẽ, đã xảy ra tình thất thoát…) DN phải cân đối lại và xuất trình các định mức không đúng với thực tế, hành vi này được phát hiện khi cơ quan Hải quan thực hiện việc kiểm tra nên doanh nghiệp sẽ bị xử phạt và truy thu (nếu có).

Liên quan đến việc phân loại hàng hóa, đại diện phòng Thuế XNK cũng lưu ý doanh nghiệp cần phân biệt việc lấy mẫu để phân tích, phân loại xác định mã số thuế hay lấy mẫu để kiểm tra chất lượng nhà nước xác định chính sách mặt hàng (có đủ điều kiện được nhập khẩu hay không). Cụ thể, đối với hàng hóa lấy mẫu để phân tích, phân loại xác định mã số thuế thuộc diện giải phóng hàng, nghĩa là sau khi kiểm tra thực tế hàng hóa, lấy mẫu, tờ khai sẽ được giải phóng hàng, doanh nghiệp được đưa hàng hóa vào sử dụng và làm thủ tục chuyển tiền trả cho nước ngoài, không cần phải chờ đợi kết quả phân tích phân loại.

Đối với hàng hóa lấy mẫu để kiểm tra chất lượng nhà nước xác định chính sách mặt hàng thuộc diện đưa hàng về bảo quản, nghĩa là sau khi kiểm tra thực tế hàng hóa, lấy mẫu, doanh nghiệp sẽ được đưa hàng về bảo quản, doanh nghiệp không được đưa hàng hóa vào sử dụng khi chưa có kết quả kiểm tra chất lượng.

Thu Dịu