VIỆT NAM XUẤT SIÊU KỶ LỤC 3,9 TỶ USD

(HQ Online)- Dữ liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan ghi nhận mức thặng dư thương mại Việt Nam đạt 3,9 tỷ USD, tính hết tháng 4/2018, cao kỷ lục trong nhiều năm gần đây.
Tân Vũ, xuất siêu, Hải Phòng
Hoạt động XNK tại cảng Tân Vũ, Hải Phòng.

Chiều 10/5, Tổng cục Hải quan đưa ra thông tin mới nhất về hoạt động XNK cả nước cập nhật trong nửa cuối tháng 4/2018.

Theo đó, kỳ 2 tháng 4 (từ 16-30/4) tổng kim ngạch XNK cả nước đạt 18,26 tỷ USD, tăng nhẹ 5,2%, tương ứng tăng 898 triệu USD so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 4 năm 2018.

Với kết quả đạt được trong nửa cuối tháng 4, tổng kim ngạch XNK của cả nước trong 4 tháng đầu năm 2018 đạt 143,89 tỷ USD, tăng 14,3%, tương ứng tăng 17,95 tỷ USD so với kết quả thực hiện trong cùng kỳ năm 2017.

Trong kỳ 2 tháng 4, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đạt mức thặng dư gần 0,8 tỷ USD, qua đó nâng mức xuất siêu của cả nước trong 4 tháng qua lên gần 3,9 tỷ USD.

Theo Tổng cục Hải quan, nửa cuối tháng 4, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh so với 15 ngày đầu tháng ở một số nhóm hàng chủ yếu như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 18,5%, tương ứng tăng 181,71 triệu USD; sắt thép các loại tăng 77,9%, tương ứng tăng 103,66 triệu USD; giày dép các loại tăng 17,3% , tương ứng tăng 100,41 triệu USD; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 35,4%, tương ứng tăng 94,14 triệu USD, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 10,2%, tương ứng tăng 66,25 triệu USD…

Đáng chú ý, nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất là điện thoại các loại và linh kiện tiếp tục xu hướng giảm, với con số giảm 315,35 triệu USD so với nửa đầu tháng 4, tương ứng giảm 16,6%.

Như vậy, hết tháng 4, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 73,89 tỷ USD, tăng 19,2%,  tương ứng tăng 11,89 tỷ USD  so với cùng kỳ năm 2017.

Về hoạt động nhập khẩu, kỳ 2 tháng 4, cả nước đạt kim ngạch đạt 8,73 tỷ USD, tăng 2,7% (tương ứng tăng 228 triệu USD về số tuyệt đối) so với kết quả thực hiện trong kỳ 1 tháng 4.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong kỳ này tăng so với kỳ 1 tháng 4 ở một số nhóm hàng chủ yếu: Than các loại tăng gấp 2,93 lần, tương ứng tăng 125,08 triệu USD; xăng dầu các loại tăng 41,7%, tương ứng tăng 112 triệu USD; vải các loại tăng 20,8%, tương ứng tăng 103,35 triệu USD; máy vi tính, sản phẩm điệu tử và linh kiện tăng 4,9%, tương ứng tăng 64,64 triệu USD…

Như vậy, tính từ đầu năm đến hết tháng 4, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt hơn 70 tỷ USD, tăng 9,5% (tương ứng tăng 6,06 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2017.

Thái Bình

XUẤT KHẨU NÔNG LÂM THỦY SẢN NĂM 2017 ĐẠT 36,37 TỶ USD

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 12 năm 2017 ước đạt 3,13 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng này năm 2017 đạt con số 36,37 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2016.

Xuất khẩu, nông sản, lâm sản, thủy sản
Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu có sự gia tăng cả về khối lượng và giá trị

Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 18,96 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2016; giá trị xuất khẩu thủy sản ước đạt 8,32 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2016; giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 7,97 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong số các mặt hàng nông sản, gạo, cao su, chè, hạt điều là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cả về lượng và giá trị. Cụ thể, đối với mặt hàng gạo, khối lượng xuất khẩu tháng 12 năm 2017 ước đạt 426 nghìn tấn với giá trị đạt 199 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo năm 2017 ước đạt 5,89 triệu tấn và 2,66 tỷ USD, tăng 22,4% về khối lượng và tăng 23,2% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá gạo xuất khẩu bình quân 11 tháng năm 2017 đạt 450,9 USD/tấn, giảm 0,37% so với cùng kỳ năm 2016. Trong số các thị trường gạo xuất khẩu, Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 11 tháng năm 2017 với 39,5% thị phần. bo chuyen doi tin hieu pt100 

Đối với mặt hàng cao su, ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 12 năm 2017 đạt 175 nghìn tấn với gái trị đạt 253 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cao su năm 2017 ước đạt 1,39 triệu tấn và 2,26 tỷ USD, tăng 11% về khối lượng và 35,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá cao su xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2017 đạt 1.654,7 USD/tấn, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm 2016.   cam bien nhiet do pt100 

Tương tự đối với mặt hàng chè, năm 2017, khối lượng chè xuất khẩu ước đạt 140 nghìn tấn và 229 triệu USD, tăng 7,2% về khối lượng và tăng 5,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Trong 11 tháng đầu năm 2017, khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan – thị trường lớn nhất của Việt Nam với 29,8% thị phần, giảm 12,8% về khối lượng và giảm 8,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Các thị trường có giá trị xuất khẩu chè trong 11 tháng đầu năm 2017 tăng mạnh là Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Đài Loan, Ả Rập XêÚt.

Cùng với các mặt hàng nông sản nói trên, năm 2017, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng hạt điều có sự tăng nhẹ về khối lượng nhưng giá trị tăng cao do tăng giá. Cụ thể, năm 2017, khối lượng xuất khẩu hạt điều ước đạt 353 nghìn tấn và 3,52 tỷ USD, tăng 1,9% về khối lượng và tăng 23,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá điều xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2017 đạt 9.926,3 USD/tấn, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2016. Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm thị phần lần lượt là 35%, 15,6% và 12,9%.

Trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu, cà phê là mặt hàng duy nhất có sự sụt giảm cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu. Cụ thể, năm 2017, khối lượng cà phê xuất khẩu ước đạt 1,42 triệu tấn và 3,21 tỷ USD, giảm 20,2% về khối lượng và 3,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2017 với thị phần lần lượt là 14,6% và 12,7%.

Cũng theo Bộ NN&PTNT, giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 12 năm 2017 ước đạt 2,46 tỷ USD, đưa giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản trong 12 tháng năm 2017 đạt 27,82 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2016. Như vậy, tính chung năm 2016, ngành nông nghiệp xuất siêu 8,55 tỷ USD.

Nguyễn Hạnh

Nguồn: http://baocongthuong.com.vn

PHÓ THỦ TƯỚNG VƯƠNG ĐÌNH HUỆ: KIM NGẠCH XNK 400 TỶ USD CÓ Ý NGHĨA QUAN TRỌNG VỚI NỀN KINH TẾ

(HQ Online)- Chiều nay, 19/12, tại trụ sở Tổng cục Hải quan, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đã tham dự Lễ ghi nhận sự kiện Việt Nam đạt mốc mới 400 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu (XNK), đánh dấu bước phát triển quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.

Kim ngạch, Xuất nhập khẩu
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ phát biểu tại buổi Lễ. Ảnh: T.Bình.

Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng thu ngân sách

Cùng tham dự, ghi nhận sự kiện quan trọng này có Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng; Thứ trưởng Bộ Tài chính Vũ Thị Mai; Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn…

Phát biểu tại buổi Lễ, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định dấu mốc 400 tỷ USD trong hoạt động XNK có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế và đánh dấu những bước tiến vượt bậc của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Sau 10 năm gia nhập WTO (năm 2007) đến nay các thứ bậc về quy mô xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam đều tăng trưởng vượt bậc và vào nhóm 30 quốc gia, vùng lãnh thổ có trị giá kim ngạch XNK lớn nhất thế giới.

Đặc biệt, không chỉ quy mô, mà cơ cấu về hàng hóa, thị trường XNK của Việt Nam đều có những chuyển biến tích cực. Đồng thời cán cân thương mại được cải thiện từ việc nhập siêu lớn những năm trước đây Việt Nam đã xuất siêu hàng tỷ USD trong năm 2016 và những tháng đã qua của năm 2017.

Theo Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, những kết quả ấn tượng của hoạt động XNK đã góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần làm tăng thu ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động XNK của Việt Nam cũng nhận được sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế.

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ thông tin, trong cuộc tiếp xúc vào tháng 9 vừa qua giữa Phó Thủ tướng với Tổng Thư ký Hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) Mukhisa Kituyi, Tổng thư ký UNCTAD bày tỏ ngưỡng mộ về sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động XNK của Việt Nam. Bởi năm 1994, toàn châu Phi xuất khẩu 60 tỷ USD, trong khi Việt Nam mới đạt 2,4 tỷ USD, nhưng tới năm 2016 thì chỉ số này của châu Phi mới tăng 90 tỷ USD trong khi Việt Nam đã tăng lên gần gấp đôi kim ngạch của cả châu Phi.

Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh, đạt được kết quả nêu trên, ngoài sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, đây là sự nỗ lực cao độ của các bộ, ngành, cộng đồng DN, trong đó có vai trò quan trọng của Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan trong thúc đẩy tiến trình cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa hải quan, góp phần quan trọng giảm thời gian thông quan hàng hóa.

Thay mặt lãnh đạo Chính phủ, Phó Thủ tướng biểu dương và đánh giá cao nỗ lực của Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan.

10 năm quy mô tăng 4 lần

Theo Tổng cục Hải quan, bước vào đầu thập niên của thế kỷ 21 (năm 2001), tổng kim ngạch XNK cả nước mới ở con số khiêm tốn, hơn 30 tỷ USD.

Sau 6 năm (năm 2007)  tổng kim ngạch đã đạt con số 100 tỷ USD; 4 năm sau (năm 2011) tổng kim ngạch XNK đã tăng gấp đôi, đạt con số 200 tỷ USD; và đạt 300 tỷ USD vào năm 2015.

Đặc biệt, sau đó chỉ cần 2 năm (giữa tháng 12/2017), tổng giá trị kim ngạch XNK của Việt Nam đã chinh phục mốc 400 tỷ USD. Như vậy tính từ năm Việt Nam chính thức gia nhập WTO đến nay (sau 10 năm), tổng kim ngạch XNK đã tăng gấp 4 lần.

Kim ngạch, Biểu đồ
Sự thay đổi về quy mô XNK của Việt Nam. Biểu đồ: Tổng cục Hải quan.

Cùng với đà tăng trưởng đó, thứ hạng của Việt Nam trên bảng xếp hạng thương mại toàn cầu (theo xếp hạng của WTO) cũng có sự cải thiện rất lớn.

Cụ thể, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng từ vị trí 50 (năm 2007) lên 26 vào năm 2016; cùng với đó, nhập khẩu tăng lên từ vị trí thứ 41 lên 25.

“Chắc chắn Việt Nam sẽ tiếp tục tăng bậc trong năm 2017”- đại diện Tổng cục Hải quan thông tin.

Cán cân thương mại đảo chiều

Đáng chú ý, cán cân thương mại của nước ta ngày càng được cải thiện. Trong giai đoạn 2006-2010, cán cân thương mại của Việt Nam luôn thâm hụt lớn với mức nhập siêu khoảng 12,5 tỷ USD/năm. Trong giai đoạn 2011-2015, nhập siêu hàng hóa đã giảm mạnh, chỉ vào khoảng 2 tỷ USD/năm.  Bước sang năm 2016, áp lực nhập siêu đã giảm khi cán cân thương mại của Việt Nam thay đổi lớn khi thặng dư 1,78 tỷ USD và trong 11 tháng của năm 2017 lên tới 3,17 tỷ USD.

Theo Tổng cục Hải quan, thặng dư thương mại đạt được chủ yếu từ hoạt động của nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Cụ thể, hết tháng 11/2017, khối doanh nghiệp FDI thặng dư 23,85 tỷ USD, trong khi khối các doanh nghiệp có vốn trong nước thâm hụt tới 20,67 tỷ USD.

Trong hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ Việt Nam có quan hệ thương mại, Trung Quốc và Hàn Quốc là 2 thị trường Việt Nam đang chịu thâm hụt thương mại lớn. Tuy nhiên, trong 11 tháng năm 2017, thâm hụt thương mại với các thị trường có sự chuyển dịch đáng chú ý khi nhập siêu từ Trung Quốc giảm tới 15,3% so với cùng kỳ năm trước, nhưng từ Hàn Quốc lại tăng mạnh tới 55,8% và Hàn Quốc đã vượt Trung Quốc trở thành thị trường có thâm hụt thương mại lớn nhất của Việt Nam với mức gần 29 tỷ USD (Trung Quốc là 21,6 tỷ USD).

Theo Tổng cục Hải quan, trong số hơn 200 đối tác thương mại khắp toàn cầu của Việt Nam có 29 thị trường xuất khẩu và 23 thị trường nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (tính hết tháng 11/2017).

Trong đó có 4 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD và 5 thị trường nhập khẩu trên 10 tỷ USD.Tổng trị giá trao đổi hàng hóa của Việt Nam với châu Á đạt 257,4 tỷ USD, tăng tới 25,7% so với cùng kỳ năm trước và là châu lục chiếm tỉ trọng cao nhất (67%) trong tổng kim ngạch XNK cả nước.

Tiếp theo là khu vực châu Mỹ với kim ngạch 62,16 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước; khu vực châu Âu đạt 52,89 tỷ USD, tăng 13,8%; khu vực châu Đại Dương đạt 7,07 tỷ USD, tăng 24,5%; khu vực châu Phi là 6,25 tỷ USD, tăng 27,6%.

Thái Bình

LẦN ĐẦU TIÊN XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU CÙNG ĐẠT TRÊN 200 TỶ USD

(HQ Online)- Thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, lần đầu tiên tổng trị giá kim ngạch xuất khẩunhập khẩu của cả nước cùng đạt mức trên 200 tỷ USD.
Xuất khẩu, Nhập khẩu, kim ngạch
Hàng hóa XNK tại khu vực cảng Hải Phòng. Ảnh: T.Bình.

Theo Tổng cục Hải quan, tính đến hết 15/12, tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu đạt 204 tỷ USD, trong khi đó tổng trị giá kim ngạch nhập khẩu đạt gần 201,3 tỷ USD.

Như vậy, so với cùng kỳ 2016, tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu tăng thêm khoảng 36 tỷ USD, tương đương tốc độ tăng trưởng gần 21,5%; ở chiều nhập khẩu, con số tăng thêm cũng rất ấn tượng đạt khoảng 35 tỷ USD, tăng gần 21,3%.

Một số thay đổi đáng chú ý trong hoạt động xuất khẩu là sự tăng trưởng mạnh mẽ của nhóm hàng điện thoại và máy tính.

So với cùng kỳ năm ngoái, mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng thêm 10 tỷ USD, đạt trị giá kim ngạch 43,19 tỷ USD là nhóm hàng có con số tuyệt đối tăng thêm nhiều nhất và cũng là nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất cả nước.

Trong khi đó, xét về tốc độ tăng trưởng, mặt hàng máy tính là một trong những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực có tốc độ tăng lớn nhất với mức tăng 38%, đạt trị giá kim ngạch 24,87 tỷ USD và vượt dệt may trở thành nhóm hàng xuất khẩu lớn thứ 2 cả nước (dệt máy đứng thứ 3 với 24,744 tỷ USD). Đây là điều gây không ít ngạc nhiên vì cùng kỳ năm ngoái, khoảng cách giữa 2 nhóm hàng này còn rất lớn lên đến hơn 4,5 tỷ USD.

Ngoài 3 nhóm hàng trên, hoạt động xuất khẩu đến 15/12 cũng ghi nhận thông tin đáng chú ý khác khi hàng loạt nhóm hàng chủ lực có kim ngạch vượt kết quả của cả năm 2016 như thủy sản đạt 7,955 tỷ USD, vượt cả năm ngoái hơn 900 triệu USD; rau quả đạt 3,346 tỷ USD, vượt gần 890 triệu USD; hạt điều đạt 3,363 tỷ USD vượt hơn 500 triệu USD…

Như vậy, dù chưa kết thúc năm nhưng đến thời điểm này có thể khẳng định năm 2017 nhiều nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước đã thiết lập được những kỷ lục mới ấn tượng về trị giá kim ngạch.

Với tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu đến 15/12 đạt 405,3 tỷ USD và trị giá trung bình đạt trên dưới 20 tỷ USD/nửa tháng, nhiều khả năng tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu năm 2017 sẽ vượt 420 tỷ USD.

Thái Bình

HẢI PHÒNG ĐẠT 92 TRIỆU TẤN HÀNG HÓA THÔNG QUA CẢNG

(HQ Online)- Theo lãnh đạo UBND TP.Hải Phòng, tổng lưu lượng hàng hóa được vận chuyển qua khu vực cảng Hải Phòng trong năm 2017 ước đạt 92 triệu tấn.
Hoạt động XNK tại cảng Tân Vũ (thuộc Công ty CP cảng Hải Phòng). Ảnh: T.Bình.

Trao đổi với phóng viên Báo Hải quan, Phó Chủ tịch Thường trực UBND TP.Hải Phòng Nguyễn Xuân Bình cho biết, đây là năm có tổng sản lượng hàng hóa thông qua cảng Hải Phòng nhiều nhất từ trước đến nay.

 
Được biết, năm 2018, thành phố Hải Phòng đặt mục tiêu đạt 107 triệu tấn hàng hóa thông quan cảng.
 

Theo ông Nguyễn Xuân Bình, đóng góp quan trọng vào kết quả trên của địa phương có đóng góp lớn của Cục Hải quan Hải Phòng trong việc cải cách, hiện đại hóa hải quan, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là việc chính thức vận hành “Hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng biển-VASSCM” tại khu vực cảng Hải Phòng mới đây.

Ông Nguyễn Xuân Bình cho rằng, việc áp dụng Hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng biển góp phần trực tiếp vào việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và cải thiện năng lực thu ngân sách của thành phố Hải Phòng. 

Liên quan đến kết quả về sản lượng hàng hóa qua khu vực cảng Hải Phòng, theo Cục Thống kê Hải Phòng, hết tháng 11, tổng lưu lượng hàng hóa qua cảng đạt 83,35 triệu tấn, tăng 17,72% so với cùng kỳ 2016. Tổng doanh thu của khối doanh nghiệp cảng trên địa bàn Hải Phòng đạt hơn 4.245 tỷ đồng.

Trong khi đó, cả năm 2016, tổng lưu lượng hàng hóa qua khu vực cảng Hải Phòng đạt 78,13 triệu tấn, tăng 14,46% so với năm 2015.

Thái Bình

XUẤT SIÊU 3,17 TỶ USD TRONG 11 THÁNG

(HQ Online)- Theo số liệu thống kê hàng hóa xuất nhập khẩu vừa được Tổng cục Hải quan công bố, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước trong 11 tháng/2017 đạt 385,77 tỷ USD, tăng 21,4% tương ứng tăng hơn 67,9 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI đạt 253,24 tỷ USD, tăng 23,2% tương ứng tăng hơn 42,83 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2016.

Kim ngạch xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất trong 11 tháng/2017 so với  cùng kỳ năm 2016.

Cũng theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 11/2017 (từ 16/11/2017 đến 30/11/2017) đạt hơn 20,28 tỷ USD,  tăng 6,5% tương ứng tăng hơn 1,23 tỷ USD so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 11/2017. Trong đó, xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong kỳ đạt kim ngạch 13,39 tỷ USD, tăng 5,5% tương ứng tăng hơn 694 triệu USD so với nửa đầu tháng 11/2017.

Trong kỳ 2 tháng 11/2017, cán cân thương mại hàng hóa cả nước thặng dư 875 triệu USD, đưa cán cân thương mại hàng hóa cả nước 11 tháng/2017 thặng dư 3,17 tỷ USD.

Về xuất khẩu, tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 11/2017 đạt 10,6 tỷ USD, tăng 13,1% (tương ứng tăng 1,23 tỷ USD về số tuyệt đối) so với kỳ 1 tháng 11/2017.

Kim ngạch xuất khẩu kỳ 2 tháng 11/2017 tăng so với kỳ 1 tháng 11/2017 chủ yếu do tăng ở một số nhóm hàng sau: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 12,3%, tương ứng tăng 267 triệu USD; dầu thô tăng 8 lần; hàng dệt may tăng 11,9%, tương ứng tăng 121 triệu USD; sắt thép các loại tăng 86,3% tương ứng tăng 95 triệu USD; giầy dép các loại tăng 13,2%, tương ứng tăng 84 triệu USD; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng tăng 14,4%, tương ứng tăng 80 triệu USD;… Trong khi đó, xăng dầu các loại giảm 38,9%, tương ứng giảm 20,3 triệu USD; gạo giảm 15,6%, tương ứng giảm 15 triệu USD;…

Như vậy, tính đến hết tháng 11 năm 2017, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 194,47 tỷ USD, tăng 21,5% tương ứng tăng hơn 34,44 tỷ USD  so với cùng kỳ năm 2016.

Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong kỳ 2 tháng 11/2017 đạt hơn 7,6 tỷ USD, tăng 11,6% tương ứng tăng 794 triệu USD so với kỳ 1 tháng 11/2017, qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng/2017 của nhóm các doanh nghiệp này lên hơn 138,5 tỷ USD, tăng 23,2%, tương ứng tăng 26,11 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2016, chiếm 71% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Về nhập khẩu, tổng trị giá hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 11/2017 đạt 9,7 tỷ USD, tăng 0,1% (tương ứng tăng hơn 7 triệu USD về số tuyệt đối) so với kết quả thực hiện trong kỳ 1 tháng 11/2017.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong kỳ 2 tháng 11/2017 tăng so với kỳ 1 tháng 11/2017 chủ yếu do tăng, giảm ở một số nhóm hàng sau: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 19%, tương ứng tăng 149 triệu USD; thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 101,4%, tương ứng tăng 89 triệu USD; dầu thô tăng 66 triệu USD… Ở chiều ngược lại, sắt thép các loại giảm 25,1%,tương ứng giảm 113 triệu USD; than đá giảm 43,1%, tương ứng giảm 48 triệu USD;…

Như vậy, tính đến hết tháng 11/2017, tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước đạt gần 191,3 tỷ USD, tăng 21,2% (tương ứng tăng 33,49 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2016.

Trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt hơn 5,75 tỷ USD, giảm 1,7%  tương ứng giảm gần 101 triệu USD so với kỳ 1 tháng 11/2017, qua đó nâng tổng kim ngạch nhập khẩu của nhóm các doanh nghiệp này trong 11 tháng/2017 đạt hơn 115 tỷ USD, tăng 23,4% tương ứng tăng hơn 21,7 tỷ USD cùng kỳ năm 2016.

Hà Nhi

GIÁ TĂNG GIÚP DẦU THÔ MANG VỀ THÊM GẦN 10.000 TỶ ĐỒNG

(HQ Online)- Dù sản lượng xuất khẩu giảm nhưng mức giá bình quân tăng mạnh giúp mặt hàng này mang về thêm hàng nghìn tỷ đồng.

Biểu đồ sản lượng, kim ngạch và mức giá bình quân ở 6 thị trường xuất khẩu chính. Biểu đồ: T.Bình.

Theo thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan, hết 15/11, cả nước xuất khẩu gần 5,93 triệu tấn dầu thô với tổng trị giá kim ngạch đạt hơn 2,443 tỷ USD.

Với kết quả trên, dù sản lượng giảm so với cùng kỳ 2016 (cùng kỳ hơn 6,523 triệu tấn) nhưng trị giá kim ngạch tăng thêm 221 triệu USD (cùng kỳ đạt 2,222 tỷ USD).

Đáng chú ý việc giảm sản lượng nhưng tăng về kim ngạch giúp trị giá bình quân mỗi tấn dầu thô xuất khẩu năm nay tăng thêm đến gần 21% so với cùng kỳ 2016.

Cụ thể, mức giá bình quân cùng kỳ năm ngoái chỉ là 340,65 USD/tấn, nhưng bước sang năm nay đã nhảy lên 412,09 USD/tấn. Như vậy, giá mỗi tấn dầu xuất khẩu năm nay cao hơn 71,44 USD/tấn (hay 1,62 triệu đồng/tấn).

Với sản lượng xuất khẩu gần 5,93 triệu tấn như đề cập ở trên, riêng số tiền tăng thêm từ giá bình quân tăng giúp cho mặt hàng này có thêm 423,59 triệu USD, tương đương hơn 9.600 tỷ đồng.

Xét về thị trường (cập nhật hết tháng 10 của Tổng cục Hải quan), những tháng vừa qua, dầu thô của nước ta được xuất đi các thị trường chính gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Australia, Hoa Kỳ, Hàn Quốc…

Trong đó, Trung Quốc đứng vị trí dẫn đầu với sản lượng gần 1,99 triệu tấn, tổng trị giá kim ngạch hơn 818 triệu USD, mức giá bình quân ở thị trường này là 411,65 USD/tấn.

Xét về mức giá xuất khẩu bình quân ở các thị trường chính, Australia là thị trường có mức giá cao nhất đạt 419,4 USD/tấn, trong khi mức giá thấp nhất là thị trường Singapore với 397,33 USD/tấn…

5 thị trường lớn kế tiếp Trung Quốc gồm: Thái Lan với sản lượng gần 807,7 nghìn tấn, trị giá kim ngạch đạt gần 335,9 triệu USD, mức giá bình quân 415,86 USD/tấn;

Nhật Bản với gần 777 nghìn tấn, tổng trị giá kim ngạch hơn 320 triệu USD, mức giá bình quân cũng xấp xỉ thị trường Trung Quốc (đạt 411,9 USD/tấn);

Singapore đạt hơn 587,5 nghìn tấn, tổng trị giá kim ngạch 233,45 triệu USD, mức giá bình quân là 397,33 USD/tấn;

Malaysia đạt gần 524,3 nghìn tấn, trị giá kim ngạch 209,67 triệu USD, mức giá bình quân 399,9 USD/tấn;

Australia đạt gần 483,5 nghìn tấn, trị giá kim ngạch đạt hơn 202,77 triệu USD, mức giá bình quân là 419,4 USD/tấn…

 

Thái Bình

CẢNH BÁO VI PHẠM TRONG LĨNH VỰC GIA CÔNG, SẢN XUẤT XUẤT KHẨU

(HQ Online)- Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc có nhiều DN gia công, sản xuất xuất khẩu (SXXK) đang giúp giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, do đó, loại hình DN này cũng nhận được nhiều chính sách ưu đãi.

Nhiều DN dệt may có hoạt động gia công, SXXK. Ảnh: T.Bình.

Tuy nhiên, có một thực tế là không ít DN gia công, SXXK đã lợi dụng các cơ chế ưu đãi để gian lận, trốn thuế. Qua quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước về hải quan, lực lượng Kiểm tra sau thông quan (KTSTQ) đã phát hiện nhiều trường hợp vi phạm, thu nộp bổ sung về ngân sách nhà nước hàng trăm tỷ đồng.

Lợi dụng ưu đãi

Những năm gần đây số lượng DN hoạt động trong lĩnh vực gia công, SXXK không ngừng tăng lên. Theo thông tin từ Cục KTSTQ (Tổng cục Hải quan), nếu như năm 2014, cả nước có khoảng 4.600 DN thì đến cuối năm 2016 con số này tăng lên khoảng 8.000 DN. Các DN gia công, SXXK chủ yếu hoạt động sản xuất trong lĩnh vực dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ…, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố: Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Long An, TP.HCM…

Thực tế cho thấy, các DN gia công, SXXK đang đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế đất nước, nhất là lĩnh vực XNK, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Đề cao vai trò của DN gia công, SXXK đối với nền kinh tế và trong bối cảnh cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho hoạt động của giới DN, trong đó có lĩnh vực gia công, SXXK thời gian qua, Việt Nam đã ban hành chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho DN hoạt động trong lĩnh vực này. Nổi bật là việc Luật Hải quan đưa ra các quy định tạo điều kiện thông thoáng về mặt thủ tục hải quan đối với loại hình gia công, SXXK. Đồng thời Luật Thuế XNK đã đưa ra quy định miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư nhập SXXK thay vi ân hạn thuế 275 ngày như trước đây.

Có thể nói các chính sách ưu đãi của nhà nước đã tạo ra môi trường thuận lợi để DN gia công, SXXK phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, góp phần nâng cao kim ngạch XNK của cả nước và giải quyết ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.

Tuy nhiên, theo Cục KTSTQ, bên cạnh các DN chấp hành tốt pháp luật, có không ít DN gia công, SXXK lợi dụng các chính sách ưu đãi về thuế để gian lận trốn thuế gây thất thu NSNN, tạo ra sự bất bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các DN.

Biến nguyên liệu thành phế liệu!

Trước thực trạng nêu trên, những năm vừa qua, thực hiện chỉ đạo của Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan về tăng cường công tác quản lý nhà nước về hải quan, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ thu NSNN, Cục KTSTQ và toàn lực lượng đã tập trung kiểm tra đối với các DN, loại hình mức độ rủi ro, nguy cơ vi phạm cao, trong đó có lĩnh vực gia công, SXXK. Qua kiểm tra của Cục KTSTQ và các Chi cục KTSTQ của các cục hải quan địa phương đã phát hiện nhiều trường hợp vi phạm và tiến hành ấn định thuế và thu nộp về ngân sách hàng trăm tỷ đồng.

Theo Cục KTSTQ, từ đầu năm 2017 đến đầu tháng 6, chỉ tính riêng loại hình gia công, SXXK, lực lượng KTSTQ toàn Ngành đã ấn định thuế tổng số tiền lên đến gần 187 tỷ đồng, các DN đã chấp hành và nộp vào ngân sách số tiền 180 tỷ đồng. Trong đó, riêng Cục KTSTQ thực hiện ấn định tổng số tiền gần 88 tỷ đồng và toàn bộ số tiền này đã được thu nộp vào NSNN. Bên cạnh đó, một số Chi cục KTSTQ của các cục hải quan địa phương có số thu lớn từ “hậu kiểm” ở lĩnh vực gia công, SXXK có thể kể đến như Chi cục KTSTQ Bắc Ninh (33,7 tỷ đồng); Chi cục KTSTQ Hải Phòng 21,5 tỷ đồng; Chi cục KTSTQ Đồng Nai 12,2 tỷ đồng; Chi cục KTSTQ TP.HCM 8,6 tỷ đồng; Chi cục KTSTQ Hà Nội gần 8,4 tỷ đồng; Chi cục KTSTQ Bình Dương hơn 7,3 tỷ đồng…

Đại diện Cục KTSTQ cho biết, các vi phạm có tính điển hình đối với DN gia công, SXXK là vấn đề định mức hoặc sử dụng nguyên liệu, vật tư sai mục đích. Định mức là cơ sở lập hồ sơ hoàn thuế, xét không thu thuế, miễn thuế nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để gia công, sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhưng qua công tác KTSTQ cơ quan Hải quan phát hiện nhiều DN có định mức đăng ký không đúng với định mức thực tế sản xuất. Đó là việc định mức quyết toán cao hơn định mức thực tế sản xuất; đưa vào định mức quyết toán những nguyên liệu, vật tư nhập gia công, SXXK không thực sự tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm; định mức quyết toán xác định sai nguồn gốc nguyên liệu, vật tư (thực tế sử dụng nguyên liệu, vật tư mua trong nước nhưng quyết toán là nguyên liệu, vật tư nhập SXXK, một hình thức đổi tráo nguyên liệu, vật tư-PV).

Một sai phạm khác phổ biến được cơ quan Hải quan chỉ ra là sử dụng nguyên liệu, vật tư sai mục đích khai báo (nguyên liệu, vật tư nhập gia công, SXXK nhưng chuyển tiêu thụ nội địa hoặc sản xuất sản phẩm tiêu thụ nội địa không khai báo cơ quan Hải quan). Thủ đoạn được DN sử dụng để gian lận qua hình thức này là: Bán nguyên liệu, vật tư dưới hình thức bán phế liệu; khai báo cấp nguyên liệu, vật tư vào sản xuất để sản xuất sản phẩm nhưng thực chất là xuất bán nguyên liệu, vật tư cho đơn vị khác.

Đáng chú ý, lực lượng KTSTQ phát hiện cả trường hợp DN bán sản phẩm hoàn chỉnh dưới hình thức bán phế phẩm hoặc để ngoài sổ kế toán doanh thu bán nguyên liệu, vật tư nhập gia công, SXXK… 

Theo Cục KTSTQ, qua quá trình kiểm tra thực tế, bên cạnh những DN vi phạm có chủ đích thì vẫn có không ít DN vi phạm do: Không có sự kết nối chặt chẽ giữa bộ phận XNK, kế toán và sản xuất nên không có sự kiểm tra, đối chiếu giữa khai báo hải quan và thực tế sản xuất dẫn đến không tự phát hiện được sai phạm.

Hay DN chưa hiểu biết thấu đáo về pháp luật hải quan đối với loại hình gia công, SXXK; hạn chế về năng lực của cán bộ XNK; công ty thuê đại lý hải quan làm các thủ tục thông quan và quyết toán thuế, tuy nhiên không có sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động khai báo của đại lý…

Thái Bình

XUẤT KHẨU THỦY SẢN VỮNG VÀNG MỤC TIÊU 8 TỶ USD

(HQ Online)- Với đà XK thuận lợi, dự kiến kim ngạch XK thủy sản cả năm sẽ đạt khoảng 8 tỷ USD, tăng hơn 1 tỷ USD so với năm 2016.

Năm nay thời tiết khá thuận lợi cho việc nuôi tôm, tạo nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ chế biến, XK. Ảnh: N.Thanh.

Tăng hơn 18% so với cùng kỳ

Suốt từ đầu năm đến nay, XK thủy sản luôn ở đà tăng trưởng đi lên so với các tháng cùng kỳ năm trước. Theo Bộ NN&PTNT, lũy kế 8 tháng đầu năm, XK thủy sản ước đạt 5,13 tỷ USD, tăng hơn 18% so với cùng kỳ năm 2016. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường NK hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 7 tháng đầu năm, chiếm 55,6% tổng giá trị XK. 7 tháng qua, các thị trường có giá trị XK thủy sản tăng mạnh điển hình phải kể tới là Trung Quốc (trên 57%), Nhật Bản (30,8%), Anh (trên 30%), Hàn Quốc (28,8%)…

Theo đại diện Bộ NN&PTNT: Năm nay tình hình nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với hai mặt hàng thủy sản chủ lực là cá tra và tôm có những tín hiệu khá tích cực, tạo nguồn cung ổn định cho XK. Cụ thể, đối với mặt hàng cá tra, các ao nuôi cá tra được quản lý và quy hoạch chặt chẽ. Từ đầu năm đến nay, giá cá tra có xu hướng tăng nên người nuôi dần ổn định sản xuất. Diện tích nuôi cá tra hiện có đạt 4.746 ha, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước. Vào vụ thu hoạch chính, sản lượng thu hoạch 8 tháng của các tỉnh ĐBSCL tăng trưởng khá, đạt trên 815 nghìn tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, Đồng Tháp là tỉnh có sản lượng thu hoạch lớn nhất đạt trên 303 nghìn tấn, tăng tới 25,4% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với mặt hàng tôm, nhìn chung thời tiết năm nay thuận lợi hơn rất nhiều so với năm 2016 nên nuôi tôm nước lợ vùng ĐBSCL tăng khá. Cụ thể, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng 8 tháng ước đạt 63,6 nghìn ha, tăng trên 15% so với cùng kỳ năm trước với sản lượng ước đạt hơn 165 nghìn tấn, tăng mạnh gần 34%. Với tôm sú, sản lượng thu hoạch trong 8 tháng đầu năm ước đạt hơn 150 nghìn tấn, tăng 8,1%. Đặc biệt, điểm đáng chú ý là, giá tôm nguyên liệu hiện vẫn duy trì ở mức ổn định và có xu hướng tăng, tạo thêm động lực cho người nuôi trồng.

Cả năm xuất khẩu đạt 8 tỷ USD

Thời gian vừa qua, việc Hoa Kỳ quyết định kiểm tra 100% lô hàng cá tra của Việt Nam XK vào thị trường này theo chương trình thanh tra cá da trơn từ ngày 2/8 thay vì kế hoạch từ ngày 1/9 trước đó đã đặt ra những lo ngại về tình hình XK cá tra nói riêng và XK thủy sản nói chung.

Liên quan tới vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Oai, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho biết: Thông thường mỗi năm, giá trị XK cá tra vào Hoa Kỳ chiếm khoảng trên 21% tổng giá trị XK mặt hàng này. Khi Hoa Kỳ thực hiện kiểm tra 100% lô hàng cá tra XK từ Việt Nam, hàng được đưa về kho do phía Hoa Kỳ yêu cầu và phía Hoa Kỳ sẽ lấy mẫu khoảng 3% trên tổng số hàng đem đi kiểm tra. Hiện nay, Việt Nam chỉ có 3 DN XK cá tra vào Hoa Kỳ. Các DN vừa tập trung sản xuất tự chủ nguồn cá tra, vừa mua thêm nguyên liệu từ các hộ nuôi trồng khác. Ngoài sự chuẩn bị của các DN, Bộ NN&PTNT cũng ban hành Chương trình kiểm soát cá da trơn XK sang thị trường Hoa Kỳ nhằm kiểm soát tốt hơn vấn đề này. “Vì vậy, mặc dù phía Hoa Kỳ áp dụng kiểm tra 100% lô hàng khá gắt gao, song động thái này không gây ảnh hưởng nhiều tới XK cá tra nói riêng và XK thủy sản nói chung trong cả năm nay. Dự kiến, XK cá tra cả năm đạt khoảng 1,7 tỷ USD và XK thủy sản tự tin đạt mức 8 tỷ USD, tăng tới hơn 1 tỷ USD so với năm 2016”, ông Oai nhấn mạnh.

Trên thực tế, thời gian qua cùng với đà tăng trưởng của XK, kim ngạch NK thủy sản cũng tăng khá mạnh. Cụ thể, báo cáo của Bộ NN&PTNT cho thấy, 8 tháng đầu năm, giá trị NK thủy sản đạt hơn 900 triệu USD, tăng trên 31% so với cùng kỳ năm 2016. Thị trường NK thủy sản lớn nhất trong 7 tháng đầu năm là Ấn Độ (chiếm 26,4% thị phần), tiếp ngay sau đó là Trung Quốc với 8,8% thị phần. Trước một số ý kiến băn khoăn đặt ra về việc thủy sản XK tăng song cũng phụ thuộc nguồn nguyên liệu NK, ông Oai cho biết thêm: Việt Nam hiện đang XK thủy sản tới hơn 100 quốc gia. Nguồn nguyên liệu trong nước cơ bản đáp ứng nhu cầu chế biến hàng XK. Tuy nhiên, khi dư thừa công suất, việc NK thêm nguyên liệu chế biến, XK, góp phần tăng thêm giá trị gia tăng là điều đáng mừng, không có gì đáng lo ngại.

Về những nhiệm vụ trọng tâm nhằm phát triển bền vững ngành thủy sản trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường chỉ đạo, Tổng cục Thủy sản phải tiếp tục hoàn thiện Luật Thủy sản theo tinh thần đảm bảo chất lượng và tiến độ để trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV. Bên cạnh đó, Tổng cục Thủy sản cũng phải tích cực phối hợp với Cục Thú y, Cục Quản lý chất lượng Nông, lâm sản và Thủy sản tổ chức hội nghị quán triệt 6 tỉnh nuôi tôm trọng điểm trên cả nước về vấn đề kháng sinh và tạp chất.

Thanh Nguyễn

XUẤT KHẨU NÔNG, LÂM, THỦY SẢN KHẢ QUAN THU VỀ 33 TỶ USD

(HQ Online)- Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn, những tháng cuối năm nay, nếu không có những bất thường lớn về thời tiết, ngành nông nghiệp sẽ về đích thành công với mức tăng trưởng ngành 3,05% và giá trị XK nông, lâm, thủy sản đạt 33 tỷ USD. 

Hết tháng 8, XK nông, lâm, thủy sản đã đạt trên 23 tỷ USD. Ảnh: Internet

Tăng trưởng toàn ngành nông nghiệp những tháng cuối năm được đánh giá phụ thuộc rất lớn vào mức tăng trưởng của lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Ở lĩnh vực chăn nuôi, trong tháng 8, giá trứng gia cầm tiếp tục tăng, giá thịt lợn giữ ở mức thấp, nên người dân vẫn thận trọng trong việc đầu tư tái đàn. Hiện tại, hầu như chỉ các trang trại, gia trại chăn nuôi lợn quy mô lớn bắt đầu tái đàn nhưng số lượng hạn chế. Ước tính hết tháng 8, đàn lợn cả nước giảm 4%, đàn trâu giảm 0,5%, đàn bò tăng 2,8%, đàn gia cầm tăng khoảng 5,1% so với cùng kỳ năm 2016. 

Tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), với nỗ lực tái đàn chăn nuôi lợn phục vụ nhu cầu Tết và sự tăng mạnh trong sản xuất trứng, đạt mức 11 tỷ quả (tăng gần 2 tỷ quả so với năm trước), dự báo năm nay lĩnh vực chăn nuôi sẽ đảm bảo mức tăng trưởng 3%. 

Đối với lĩnh vực trồng trọt, do những tháng đầu năm thời tiết diễn biến phức tạp nên sản lượng vụ Đông Xuân giảm 300.000 tấn lúa; bù lại vụ Hè Thu ở các tỉnh phía Nam đã thu hoạch 1.085 nghìn ha (chiếm 56,2%) cho năng suất tăng hơn so với vụ trước là 2 tạ/ha. 

Đại diện Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) đánh giá: Với diện tích lúa ở miền Bắc đang phát triển khá tốt và kế hoạch sản xuất vụ Thu Đông ở ĐBSCL, sản lượng tăng khoảng 250.000 – 300.000 tấn so với cùng kỳ năm trước. Tính chung, sản lượng lúa cả năm ước đạt 44,1 triệu tấn.

Báo cáo của Bộ NN&PTNT cho thấy tính tới hết tháng 8, tổng kim ngạch XK nông, lâm, thủy sản ước đạt 23,7 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong các lĩnh vực sản xuất, thủy sản đang có những tín hiệu tăng trưởng và XK khả quan. Giá trị XK thủy sản ước đạt 5,1 tỷ USD, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Thanh Nguyễn