(ĐỔI MỚI QUẢN LÝ, GIÁM SÁT HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU) BÀI 6: DOANH NGHIỆP ĐỒNG HÀNH VỚI KẾ HOẠCH ĐỔI MỚI CỦA NGÀNH HẢI QUAN

(HQ Online)- Kế hoạch triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không và Đề án quản lý, giám sát hàng hóa đường hàng không (nằm trong Đề án tổng thể của Tổng cục Hải quan về quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không) đang được Cục Hải quan Hà Nội gấp rút hoàn thiện để triển khai chính thức vào tháng 10/2017.

Giám sát hoạt động XC, NC tại sân bay quốc tế Nội Bài. Ảnh: N.Linh.​​​

Xuyên suốt quá trình chuẩn bị, Cục Hải quan Hà Nội, các hãng hàng không, DN kinh doanh kho bãi, cảng và các cơ quan quản lý liên quan đã hợp tác chặt chẽ. Nhờ đó, bước đầu triển khai đã có những kết quả nhất định.

Phối hợp chặt chẽ

 
Kỳ vọng vào kết quả khi triển khai chính thức hệ thống quản lý, giám sát hàng hóa, ông Lê Thanh Bình-Phó Giám đốc Nhà ga hàng hóa hàng không ALS Nội Bài  cho rằng: “Đây là hệ thống điện tử nên được đánh giá trên cơ sở thông tin nhập vào hệ thống và xử lý, vì thế yêu cầu thông tin chính xác cao. Phạm vi hệ thống tính quốc gia, độ phủ lớn nên chắc chắn khi triển khai sẽ không đơn giản, nhưng với sự nỗ lực, mong muốn làm và kết quả ban đầu đạt được thì các bên sẽ vượt qua trở ngại”.
 

Việc khởi động kế hoạch triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không và Đề án quản lý, giám sát hàng hóa đường hàng không không chỉ khắc phục những bất cập, khó khăn trong kết nối, chia sẻ thông tin mà còn là bước cải cách mạnh mẽ nhằm đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan với thủ tục của DN kinh doanh kho, bãi cảng hàng không và các bên liên quan, từ đó rút ngắn thời gian và chi phí làm thủ tục của người khai hải quan; nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra, kiểm soát và giám sát hải quan. Việc triển khai tất nhiên không đơn giản, bởi đây là một mô hình mới, với khối lượng công việc lớn như: khảo sát, thu thập và phân tích thông tin; điều phối các hoạt động phối hợp; tuyên truyền, vận động DN tham gia; đề xuất quy trình, mô hình quản lý trên phạm vi toàn quốc. Nhưng với những kết quả bước đầu đạt được tại Cục Hải quan Hà Nội cho thấy khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Hải quan và DN thì việc triển khai sẽ đạt được như kỳ vọng.Trong giai đoạn đầu, Cục Hải quan Hà Nội đã lựa chọn, đề xuất thí điểm thực hiện Cơ chế một cửa đối với Vietnam Airlines. Từ giữa năm 2016, Cục Hải quan Hà Nội đã phối hợp với Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan, các DN kinh doanh kho hàng không và Vietnam Airlines lập nhóm chuyên gia gồm những người có kinh nghiệm trong các lĩnh vực CNTT, khai thác hàng hóa… Thiết lập cơ chế đối thoại, trao đổi thông qua email, điện thoại và họp nhóm làm việc trực tiếp hai tuần/lần. Đồng thời, tổ chức khảo sát và tham khảo ý kiến của các hãng hàng không, DN cảng và các công ty dịch vụ mặt đất về quy trình khai thác hàng hóa, quy trình gửi/nhận thông tin điện tử… Đến ngày 1/1/2017, đã triển khai thực hiện thí điểm Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không tại Sân bay quốc tế Nội Bài đối với Vietnam Airlines.

Song song, Cục Hải quan Hà Nội phối hợp với Tổng cục Hải quan và các DN kinh doanh kho hàng không tại Nội Bài (ALSC, ACSV và NCTS) gấp rút hoàn thiện hệ thống phần mềm quản lý, giám sát hàng hóa đường hàng không. Đây là một phân hệ của hệ thống một cửa hàng không có nhiệm vụ tự động tiếp nhận và xử lý, phản hồi đối với toàn bộ các thông tin về hàng hóa đường hàng không được khai thác tại cảng hàng không quốc tế.

Có hiệu quả

Là DN đã tham gia phối hợp chặt chẽ với cơ quan Hải quan trong việc triển khai Cơ chế một cửa đường hàng không, cũng như xây dựng hệ thống giam sát hàng hóa, ông Lê Thanh Bình-Phó Giám đốc Nhà ga hàng hóa hàng không ALS Nội Bài cho rằng, triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho DN nói chung, cho ga hàng hóa, hãng hàng không nói riêng trong việc cắt giảm thời gian và chi phí trong việc làm thủ tục thông quan đối với hàng hóa vận chuyển đường hàng không. Triển khai cơ chế này, DN kinh doanh kho hàng không là mắt xích quan trọng trong dây chuyền vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không. Chính vì vậy, trong thời gian qua, DN đã nhận được sự chỉ đạo, hỗ trợ, hợp tác chặt chẽ của cơ quan Hải quan trong việc chuẩn bị hạ tầng kết nối. Ngay khi có kế hoạch triển khai của Cục Hải quan Hà Nội, DN đã bố trí cán bộ để cùng hợp tác với cơ quan Hải quan khảo sát, xây dựng kế hoạch triển khai, chuẩn bị cơ sở hạ tầng CNTT.

Sau một thời gian chuẩn bị hoàn thiện hệ thống hạ tầng chuẩn dữ liệu, CNTT, giữa tháng 6/2017, DN đã kết nối thông suốt hai chiều từ kho hàng không đến cổng một cửa và ngược lại. Theo kết quả ban đầu triển khai, hệ thống một cửa quốc gia rút ngắn nhiều thời gian và các bước làm thủ tục cho DN. Nếu như trước đây phải đi qua ba khâu thủ tục để xuất hàng ra khỏi kho hàng không thì khi triển khai chỉ cần qua một cửa duy nhất, nếu điều kiện đầy đủ thì hàng đã xuất khỏi kho hàng không. Qua đó sẽ tiết kiệm thời gian nộp giấy tờ thủ tục, di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm kia. “Đặc biệt việc cung cấp thông tin trước về hàng hóa giúp cơ quan Hải quan đủ thời gian đánh giá các vấn đề về mặt nghiệp vụ để đưa ra được quyết định nhanh là hàng hóa này được đối xử như thế nào. Các bên đều được hưởng lợi vì hàng hóa được ra quyết định từ trước khi làm các thủ tục đưa hàng ra khỏi kho”- Ông Bình nói.

Mặc dù ủng hộ kế hoạch cải cách của ngành Hải quan nhưng DN cũng mong muốn cơ quan Hải quan làm rõ những vấn đề còn băn khoăn. Chẳng hạn, đại diện Hãng hàng không Thái cho rằng, cần cân nhắc khung thời gian chuyển thông tin đến cơ quan Hải quan. Một số chỉ tiêu thông tin như số ghế của hành khách, số lượng thành viên tổ bay chỉ nên yêu cầu cung cấp nếu có thay vì “bắt buộc” như dự kiến trong dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định thủ tục điện tử đối với tàu bay XC, NK, quá cảnh thông qua Cơ chế một cửa quốc gia vì: Số ghế của hành khách có thể chỉ chắc chắn có khi họ làm thủ tục check-in; không phải hãng hàng không nào cũng cập nhật số lượng và tên các thành viên tổ bay trong dữ liệu đặt chỗ trước…

Giải đáp về thắc mắc của DN, Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan Âu Anh Tuấn cho biết, trong dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 08/2015/NĐ-CP đã quy định rõ thời điểm cung cấp thông tin, cụ thể đối với chuyến bay ngắn quy định hãng hàng không cung cấp thông tin (danh sách hành khách, hàng hóa, thông tin phi hành đoàn, hành lý ký gửi) trước 30 phút trước khi hạ cánh. Như vậy, thời gian đó đủ cho hãng hàng không gửi thông tin đến cơ quan Hải quan, dù chuyến bay ngắn.

Trên cơ sở kết quả chạy thử kết nối hệ thống giữa Hải quan và DN kho trong thời gian vừa qua, Cục Hải quan Hà Nội cho rằng, kinh nghiệm để triển khai thành công dự án này là các DN, hãng hàng không, công ty giao nhận phải nắm được, hiểu được hệ thống thì khi tham gia vào khai thác, sử dụng sẽ thuận lợi. Để đáp ứng lộ trình triển khai theo kế hoạch của Tổng cục Hải quan (tháng 10/2017), trong thời gian này, Cục Hải quan Hà Nội sẽ tiếp tục phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống; song song tổ chức tập huấn, hướng dẫn đối với các đối tượng có liên quan bao gồm cả các bộ, ngành và các đối tượng làm thủ tục XNK liên quan đến hàng hóa, hành lý để thống nhất, hiểu đúng khi triển khai áp dụng không xảy ra sai xót.

Yêu cầu cung cấp thông tin trước chuyến bay

Theo Trưởng phòng Giám sát quản lý về hải quan (Cục Hải quan Hà Nội) Đặng Hoàng Điệp: Trong thời gian qua do chưa có hệ thống kết nối với các hãng hàng không nên việc cung cấp thông tin hàng hóa chưa thực hiện được trước, chỉ thực hiện khi tàu bay hạ cảng mới được xuất trình cho hải quan. Thông tin đến cơ quan quản lý nhà nước chậm nên chưa đủ thông tin để phân tích, từ đó đưa ra biện pháp quản lý cho từng đối tượng, dẫn đến có các lô hàng thông quan chậm. Chính vì vậy, cần phải có thông tin trước để phân tích đối tượng, đưa ra các đối tượng cần quản lý, đối tượng qua đánh giá rủi ro tuân thủ tốt pháp luật có thể được thông quan sớm hơn, có thể ngay khi máy bay vừa hạ cánh, vào kho là có thể thông quan ngay.

Ngọc Linh

GỠ VƯỚNG NHIỀU QUY ĐỊNH ÁP MÃ HS ĐỐI VỚI CÁC MẶT HÀNG XNK

(HQ Online)- Trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan, nhiều DN đã phản ánh những vướng mắc liên quan đến quy định áp mã đối với các mặt hàng XNK. Nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ thông tin để các DN nắm được các quy định về chính sách pháp luật liên quan đến hải quan, Tổng cục Hải quan đã trả lời cụ thể một số vướng mắc của DN.

Công chức Hải quan Lạng Sơn kiểm tra mặt hàng thép NK. Ảnh: H.Nụ.

Công ty CP thương mại Citicom nêu, hiện tại, thép dây hợp kim NK về với mã HS 7227.90.00 đang bị áp thuế tự vệ là 15,4%, do đó, DN đã chuyển sang NK thép dây không hợp kim với mã HS 7213.91.90, thuế NK 3%. Tuy nhiên, theo thông tin DN được biết thì một số nhà sản xuất trong nước đang đề nghị Bộ Công Thương đưa thêm mặt hàng này vào danh mục hàng chịu thuế tự vệ như hàng hợp kim. Vậy Bộ Công Thương có đưa mặt hàng này vào danh mục chịu thuế tự vệ như hàng hợp kim không và nếu có thì dự kiến khi nào?  Đề nghị Tổng cục Hải quan cho biết kết quả điều tra mặt hàng thép hình H và nếu thay đổi, thì khi nào áp dụng?

DN cũng cho rằng, DN đang nhập thép dây không hợp kim theo mã HS 7213.91.90, thuế NK 3%. Tuy nhiên, cũng có một mã HS khác là 9839.10.00  với mô tả hàng hóa giống hệt, có DN khác NK cùng nhà máy với DN đã sử dụng được với cùng mục đích sử dụng, thuế 0%. Vậy, DN đề nghị có hướng dẫn cụ thể chi tiết để đảm bảo các DN cạnh tranh một cách công bằng.

Liên quan đến các thắc mắc của DN, hiện nay Tổng cục Hải quan chưa nhận được thông tin về việc mặt hàng thuộc mã số 7213.91.90 đưa vào danh mục chịu thuế tự vệ và kết quả điều tra mặt hàng thép hình chữ H. Do đó, Tổng cục Hải quan đề nghị DN liên hệ với Bộ Công Thương để biết thông tin cụ thể.

Căn cứ chú giải chương 98 Biểu thuế NK ưu đãi ban hành kèm theo Nghị định số 122/2016/NĐ-CP của Chính phủ thì mặt hàng thép “không hợp kim, dạng thanh và dạng cuộn cuốn không đều, được cán nóng” thuộc nhóm 98.39 phải đáp ứng yêu cầu kỹ thuật quy định tại một trong các tiêu chuẩn TCVN 1766:1975 và TCVN 8996:2011 (ISO 4954:1993) do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố.

Như vậy đã có tiêu chuẩn để phân biệt thép không hợp kim thuộc nhóm 9839.10.00 và nhóm 7213.91.90, do đó, đề nghị DN nghiên cứu Nghị định số 122/2016/NĐ-CP để thực hiện đúng quy định.

Công ty TNHH Yamaha Moto Việt Nam thắc mắc sau khi có kết quả phân tích phân loại mã HS của một chi tiết NK của DN, nếu kết quả phân tích phân loại mã HS này khác với mã HS mà DN khai báo trước đó làm thuế NK của chi tiết tăng: DN có phải khai báo bổ sung mã HS của các lô hàng NK trước đó để nộp thuế bổ sung không? Thời hạn khai báo bổ sung là mấy năm trước đó? HS làm thuế NK của chi tiết giảm: DN có được khai báo bổ sung mã HS của các lô hàng NK trước đó để hoàn thuế không? Thời hạn khai báo bổ sung là mấy năm trước đó?

Về vấn đề này, theo Tổng cục Hải quan, tại Khoản 4 Điều 29 Luật Hải quan 2014 và Khoản 1 Điều 20 Thông tư số 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định các trường hợp khai bổ sung hồ sơ hải quan. Đối chiếu với thắc mắc của DN, trường hợp DN khai bổ sung mã HS cho các lô hàng trước đó thì căn cứ thực tế tình trạng lô hàng để áp dụng quy định theo Điểm b, c, d Khoản 1 Điều 20 Thông tư 38/2015/TT-BTC.

Công ty TNHH Minh Nhật đề nghị cơ quan Hải quan hướng dẫn thực hiện đối với quy định về HS code khí ga hóa lỏng đối với mặt hàng Propan và Butan.

Theo Tổng cục Hải quan, căn cứ quy định tại Phụ lục V Danh mục hóa chất phải khai báo ban hành kèm Nghị định số 26/2011/NĐ-CP của Chính phủ thì mặt hàng Propan (mã số HS 271112), Butan (mã số HS 271113) thuộc số thứ tự 9 trong Phụ lục V nêu trên thì phải khai báo hóa chất NK với Bộ Công Thương trước khi thông quan. Mặt hàng“loại khác” (mã số HS 271119) không thuộc Danh mục hóa chất phải khai báo theo quy định tại Phụ lục V nêu trên.

Liên quan đến quy định hướng dẫn việc giám sát đối với mặt hàng LPG XK vào Khu công nghiệp-Khu chế xuất, đề nghị DN căn cứ các quy định tại Thông tư số 69/2016/TT-BTC để thực hiện thủ tục hải quan, kiểm tra và giám sát hải quan đối với lượng nhiên liệu cung ứng cho DN thuộc các khu vực hải quan riêng trên lãnh thổ Việt Nam.

Công ty TNHH cơ điện lạnh và thương mại Hòa Bình – Thương Hiệu Alaske hỏi Bộ Tài chính đã có cơ chế trao đổi, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, kinh nghiệm các nước trong việc phân loại áp mã số HS đối với nhiều mặt hàng mới, có nhiều chức năng sử dụng tích hợp vào trong một mặt hàng chưa? Bộ Tài chính có quy định nào giúp hỗ trợ người khai hải quan để thực hiện thống nhất theo hướng dẫn phân loại áp mã để tránh cho người khai hải quan khi NK, khi đã phân phối, khi đã hạch toán và nộp thuế không bị xem xét truy thu, truy hoàn vì áp mã chưa chính xác đối với những mặt hàng khó áp mã này không?

Về kiến nghị của DN, liên quan đến quyết định ấn định thuế, theo Tổng cục Hải quan, căn cứ Quyết định số 49/QĐ-CTN ngày 6/3/1998 của Chủ tịch nước, Việt Nam là thành viên tham gia Công ước Quốc tế về Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa (Công ước HS). Công ước HS là Công ước do Hội đồng hợp tác Hải quan, nay gọi là Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) thông qua ngày 14/6/1983 tại Bruxelles, Vương quốc Bỉ.

Từ khi tham gia đến nay, Việt Nam (nói chung), Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan (nói riêng) luôn tuân thủ đầy đủ các quy định về việc phân loại theo Công ước HS và thường xuyên có sự trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với các nước thành viên tham gia Công ước cũng như các hướng dẫn của WCO (thông qua việc tham gia các khóa tập huấn về phân loại áp mã trong khối ASEAN để trao đổi kinh nghiệm với các nước trong khu vực, hướng tới thống nhất cách hiểu, cách phân loại áp mã cho hàng hóa XNK (đặc biệt là các mặt hàng mới…). Ngoài ra, Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan thường xuyên tham khảo các tài liệu như: Chú giải chi tiết HS 2012, Chú giải bổ sung Danh mục AHTN, tuyển tập ý kiến phân loại của WCO… khi thực hiện phân loại, áp mã cho hàng hóa, với mục đích xác định chính xác, thống nhất mã HS đối với các hàng hóa XNK, nhằm tạo thuận lợi cho DN.

Tại Điều 7 và Điều 39 Luật Quản lý thuế, Điều 18 Luật Hải quan 2014 quy định, người khai hải quan có trách nhiệm tự kê khai và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin khai báo trên tờ khai hải quan. Khoản 3 Điều 25 Nghị định số 08/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định trách nhiệm của người khai hải quan: “Người khai hải quan phải khai đầy đủ, chính xác, trung thực, rõ ràng các tiêu chí trên tờ khai hải quan; tự tính để xác định số thuế, các khoản thu khác phải nộp ngân sách nhà nước và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã khai”.

Trong quá trình thực hiện hoạt động XNK, trường hợp DN có khó khăn, vướng mắc trong việc xác định mã số HS hàng hóa có thể liên hệ ngay với cơ quan Hải quan để được hướng dẫn, giải quyết kịp thời, tránh thiệt hại cho DN. Trường hợp vẫn không thể xác định được mã HS thì có thể gửi hồ sơ tới Tổng cục Hải quan để xin xác định trước mã số hàng hóa. Thủ tục xin xác định trước mã số HS của hàng hóa thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 Thông tư số 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan; thuế XNK và quản lý thuế đối với hàng hóa XNK.

Trường hợp có văn bản của Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan và các cơ quan hữu quan khác sửa đổi, hướng dẫn phân loại áp mã, làm ảnh hưởng tới quá trình khai hải quan về mã số, mức thuế và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của người khai hải quan, người nộp thuế thì thực hiện phân loại hàng hóa, áp dụng mức thuế kể từ ngày văn bản sửa đổi hướng dẫn phân loại có hiệu lực pháp luật theo quy định (quy định tại Điều 6, Thông tư 14/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về phân loại hàng hóa, phân tích để phân loại hàng hóa; phân tích để kiểm tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm đối với hàng hóa XNK).

Tuấn Kiệt

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn/