VAI TRÒ QUẢN LÝ HẢI QUAN ĐƯỢC NÂNG CAO QUA CÔNG TÁC PHÂN LOẠI HÀNG HÓA

(HQ Online)- Nâng cao hiệu quả quản lý khai báo mã số hàng hóa là một trong những biện pháp mà ngành Hải quan đã triển khai trong thời gian dài vừa qua để phòng ngừa và chống thất thu thuế qua khai báo phân loại hàng hóa. Không chỉ có thế, điều này còn giúp tạo điều kiện lành mạnh hoá môi trường cạnh tranh trên thị trường nội địa và quốc tế của các DN Việt Nam.

Hoạt động nghiệp vụ tại Chi cục Hải quan Thái Nguyên, Cục Hải quan Bắc Ninh. Ảnh: T.Trang​​​

Phân loại hàng hóa XK, NK là việc căn cứ vào tên gọi, mô tả về tính chất, thành phần, cấu tạo, công dụng, quy cách đóng gói và các thuộc tính khác của hàng hóa để xác định, sắp xếp hàng hóa vào một mã số nhất định theo Hệ thống hài hóa mô tả và mã hóa hàng hóa, Danh mục hàng hóa XK, NK Việt Nam và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Đây là một khâu rất quan trong trong hoạt động XNK của DN và hoạt động quản lý hải quan.

Thực tế Việt Nam đã tham gia Công ước HS từ 1998 và có hiệu lực vào ngày 1/1/2000, qua thời gian triển khai thực hiện, công tác phân loại hàng hóa theo HS đối với hàng hóa XNK đã có những sự thay đổi đáng kể.

Xác định được tầm quan trọng của việc hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác phân loại hàng hóa, đảm bảo thu đúng, thu đủ, đơn giản, dễ thực hiện, nâng cao uy tín của cơ quan Hải quan trong cộng đồng DN là hết sức cần thiết. Vì vậy, ngành Hải quan đã từng bước nội luật hóa các quy định phân loại của Hải quan thế giới, đồng thời cũng chuẩn hóa cách phân loại theo quy định của quốc tế.

Đó là việc Hải quan Việt Nam đã triển khai áp dụng Công ước hài hoà mô tả mã hoá hàng hoá của Tổ chức Hải quan thế giới (HS) thay cho việc áp dụng danh mục hàng hoá XNK của khối SEV ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX. Bên cạnh đó, Hải quan Việt Nam đã cử đại diện tham gia xây dựng, đàm phán, triển khai áp dụng Danh mục thuế quan hài hoà ASEAN (AHTN) để thực hiện Nghị định thư về việc thực thi AHTN, xây dựng Danh mục hàng hoá XNK Việt Nam theo chuẩn hóa quốc tế.

Thực tế, trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước về hải quan, tình trạng DN khai sai mã số hàng hóa để hưởng mức thuế thấp hơn là một hình thức gian lận khá phổ biến. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế phát triển với đa dạng về các chủng loại hàng hóa, sự xuất hiện của những mặt hàng đa chức năng, đa công dụng. Vì vậy, công tác phân loại của cơ quan Hải quan gặp không ít khó khăn, bởi nhận thức về bản chất hàng hóa có nhiều ý kiến khác nhau và nhân lực của cơ quan Hải quan làm công tác phân loại hàng hóa còn hạn chế.

Song, với mục tiêu xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách về phân loại hàng hóa, để có một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh Ngành Hải quan đã xây dựng, thu thập, cập nhật hệ thống cơ sở dữ liệu về phân loại hàng hóa đầy đủ, có độ tin cậy cao, tích hợp với các hệ thống cơ sở dữ liệu khác của ngành Hải quan, phục vụ đắc lực cho quản lý rủi ro và thủ tục hải quan điện tử; kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường năng lực của cán bộ, công chức làm công tác phân loại hàng hóa chuyên nghiệp, chuyên sâu, tập trung, thống nhất tại ba cấp Tổng cục- Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố- Chi cục… Qua đó, góp phần thu đúng, thu đủ cho ngân sách nhà nước, khắc phục tình trạng phân loại hàng hóa không thống nhất, giảm và hạn chế đến mức thấp nhất việc truy thu thuế, khiếu nại, khiếu kiện, tranh chấp trong công tác phân loại hàng hóa, xác định mức thuế.

Theo Cục trưởng Cục Thuế XNK (Tổng cục Hải quan) Lưu Mạnh Tưởng, hiện quy trình phân loại hàng hóa của ngành Hải quan đã thống nhất được các quan điểm phân loại hàng hóa khác nhau giữa các đơn vị trước khi ban hành thông báo kết quả phân loại hàng hóa. Đồng thời qua đó, hình thành được hệ thống phần mềm MHs lưu giữ kết quả phân tích phân loại trong toàn ngành. Từ đó giúp DN dễ dàng tra cứu các kết quả phân loại hàng hóa, và cũng giúp DN thuận tiện hơn trong việc áp dụng vào việc phân loại hàng hóa của chính DN bởi những thông báo kết quả phân loại đều được Tổng cục Hải quan công khai trên website của ngành.

Cùng với đó, quy định về xác định trước mã số hàng hóa, xuất xứ của hàng hóa được Tổng cục Hải quan triển khai nhằm giúp DN chủ động tính toán trước hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ, đồng thời giúp cơ quan Hải quan tăng hiệu quả quản lý. Hầu hết hồ sơ gửi đến đều được Cục Thuế XNK giải quyết trong thời hạn 30 ngày, những trường hợp hàng hóa phức tạp cũng được giải quyết trong thời hạn tối đa 60 ngày.

Việc thực hiện quy định xác định trước mã số hàng hóa mang lại lợi ích cho cả Hải quan và DN. Đó là, cơ quan Hải quan nâng cao năng suất và hiệu quả quản lý nhờ đẩy nhanh tốc độ thông quan hàng hóa, phân bổ nguồn lực hợp lý vào các giai đoạn trước, trong và sau thông quan. Về phía DN sẽ căn cứ vào những thông tin được cung cấp trước có tính rằng buộc pháp lý để nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch kinh doanh và tính toán lợi nhuận. Điều này làm tăng độ chắc chắn và có thể dự doán được cho các DN khi tham gia các giao dịch thương mại quốc tế.

Đặc biệt, với việc Bộ Tài chính ban hành Danh mục hàng hóa XNK Việt Nam (kèm theo Thông tư 65/2017/TT-BTC) theo Danh mục AHTN 2017, Biểu thuế MFN và các Biểu thuế FTA, các danh mục quản lý chuyên ngành theo AHTN 2017 đã đảm bảo đồng bộ và hợp nhất, hỗ trợ cho công tác phân loại hàng hóa được thuận lợi và chính xác. Cùng với đó là Danh mục quản lý rủi ro về phân loại được Tổng cục Hải quan xây dựng và triển khai trong toàn ngành, trong đó bao gồm khoảng 380 mặt hàng cấp độ 8 chữ số và 7 nhóm hàng cấp độ 6 chữ số bao gồm cả hàng NK và XK được thường xuyên cập nhật và thay đổi…, là tài liệu quan trọng, là công cụ quản lý trong công tác phân loại hàng hóa của cơ quan Hải quan trong cả khâu trong và sau thông quan. Đây cũng là những văn bản quy phạm pháp luật quan trọng giúp ngành Hải quan hoàn chỉnh hệ thống chính sách về phân loại hàng hóa.

Chỉ riêng trong công tác phân loại hàng hóa, năm 2016 Tổng cục Hải quan đã ban hành hơn 4.620 thông báo kết quả phân loại hàng hóa, xử lý gần 260 đơn đề nghị xác định trước mã số hàng hóa. Tình trạng tranh chấp giữa Hải quan và DN liên quan đến mã số hàng hóa và thuế suất ưu đãi đã giảm đáng kể. Năm 2016, chỉ có 4 đơn khiếu nại chủ yếu tập trung vào những mặt hàng phức tạp, dễ nhầm lẫn. Kết quả DN khai bổ sung hoặc ấn định lại thuế riêng trong công tác phân loại hàng hóa là trên 87,2 tỷ đồng và DN đã nộp trên 57,5 tỷ đồng vào NSNN.

Trong 6 tháng đầu năm 2017, Tổng cục Hải quan đã ban hành hơn 745 thông báo kết quả phân loại hàng hóa, xử lý 108 đơn đề nghị xác định trước mã số hàng hóa theo đề nghị của tổ chức, cá nhân.

Thu Trang

(ĐỔI MỚI QUẢN LÝ, GIÁM SÁT HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU) BÀI 6: DOANH NGHIỆP ĐỒNG HÀNH VỚI KẾ HOẠCH ĐỔI MỚI CỦA NGÀNH HẢI QUAN

(HQ Online)- Kế hoạch triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không và Đề án quản lý, giám sát hàng hóa đường hàng không (nằm trong Đề án tổng thể của Tổng cục Hải quan về quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không) đang được Cục Hải quan Hà Nội gấp rút hoàn thiện để triển khai chính thức vào tháng 10/2017.

Giám sát hoạt động XC, NC tại sân bay quốc tế Nội Bài. Ảnh: N.Linh.​​​

Xuyên suốt quá trình chuẩn bị, Cục Hải quan Hà Nội, các hãng hàng không, DN kinh doanh kho bãi, cảng và các cơ quan quản lý liên quan đã hợp tác chặt chẽ. Nhờ đó, bước đầu triển khai đã có những kết quả nhất định.

Phối hợp chặt chẽ

 
Kỳ vọng vào kết quả khi triển khai chính thức hệ thống quản lý, giám sát hàng hóa, ông Lê Thanh Bình-Phó Giám đốc Nhà ga hàng hóa hàng không ALS Nội Bài  cho rằng: “Đây là hệ thống điện tử nên được đánh giá trên cơ sở thông tin nhập vào hệ thống và xử lý, vì thế yêu cầu thông tin chính xác cao. Phạm vi hệ thống tính quốc gia, độ phủ lớn nên chắc chắn khi triển khai sẽ không đơn giản, nhưng với sự nỗ lực, mong muốn làm và kết quả ban đầu đạt được thì các bên sẽ vượt qua trở ngại”.
 

Việc khởi động kế hoạch triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không và Đề án quản lý, giám sát hàng hóa đường hàng không không chỉ khắc phục những bất cập, khó khăn trong kết nối, chia sẻ thông tin mà còn là bước cải cách mạnh mẽ nhằm đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan với thủ tục của DN kinh doanh kho, bãi cảng hàng không và các bên liên quan, từ đó rút ngắn thời gian và chi phí làm thủ tục của người khai hải quan; nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra, kiểm soát và giám sát hải quan. Việc triển khai tất nhiên không đơn giản, bởi đây là một mô hình mới, với khối lượng công việc lớn như: khảo sát, thu thập và phân tích thông tin; điều phối các hoạt động phối hợp; tuyên truyền, vận động DN tham gia; đề xuất quy trình, mô hình quản lý trên phạm vi toàn quốc. Nhưng với những kết quả bước đầu đạt được tại Cục Hải quan Hà Nội cho thấy khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Hải quan và DN thì việc triển khai sẽ đạt được như kỳ vọng.Trong giai đoạn đầu, Cục Hải quan Hà Nội đã lựa chọn, đề xuất thí điểm thực hiện Cơ chế một cửa đối với Vietnam Airlines. Từ giữa năm 2016, Cục Hải quan Hà Nội đã phối hợp với Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan, các DN kinh doanh kho hàng không và Vietnam Airlines lập nhóm chuyên gia gồm những người có kinh nghiệm trong các lĩnh vực CNTT, khai thác hàng hóa… Thiết lập cơ chế đối thoại, trao đổi thông qua email, điện thoại và họp nhóm làm việc trực tiếp hai tuần/lần. Đồng thời, tổ chức khảo sát và tham khảo ý kiến của các hãng hàng không, DN cảng và các công ty dịch vụ mặt đất về quy trình khai thác hàng hóa, quy trình gửi/nhận thông tin điện tử… Đến ngày 1/1/2017, đã triển khai thực hiện thí điểm Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không tại Sân bay quốc tế Nội Bài đối với Vietnam Airlines.

Song song, Cục Hải quan Hà Nội phối hợp với Tổng cục Hải quan và các DN kinh doanh kho hàng không tại Nội Bài (ALSC, ACSV và NCTS) gấp rút hoàn thiện hệ thống phần mềm quản lý, giám sát hàng hóa đường hàng không. Đây là một phân hệ của hệ thống một cửa hàng không có nhiệm vụ tự động tiếp nhận và xử lý, phản hồi đối với toàn bộ các thông tin về hàng hóa đường hàng không được khai thác tại cảng hàng không quốc tế.

Có hiệu quả

Là DN đã tham gia phối hợp chặt chẽ với cơ quan Hải quan trong việc triển khai Cơ chế một cửa đường hàng không, cũng như xây dựng hệ thống giam sát hàng hóa, ông Lê Thanh Bình-Phó Giám đốc Nhà ga hàng hóa hàng không ALS Nội Bài cho rằng, triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho DN nói chung, cho ga hàng hóa, hãng hàng không nói riêng trong việc cắt giảm thời gian và chi phí trong việc làm thủ tục thông quan đối với hàng hóa vận chuyển đường hàng không. Triển khai cơ chế này, DN kinh doanh kho hàng không là mắt xích quan trọng trong dây chuyền vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không. Chính vì vậy, trong thời gian qua, DN đã nhận được sự chỉ đạo, hỗ trợ, hợp tác chặt chẽ của cơ quan Hải quan trong việc chuẩn bị hạ tầng kết nối. Ngay khi có kế hoạch triển khai của Cục Hải quan Hà Nội, DN đã bố trí cán bộ để cùng hợp tác với cơ quan Hải quan khảo sát, xây dựng kế hoạch triển khai, chuẩn bị cơ sở hạ tầng CNTT.

Sau một thời gian chuẩn bị hoàn thiện hệ thống hạ tầng chuẩn dữ liệu, CNTT, giữa tháng 6/2017, DN đã kết nối thông suốt hai chiều từ kho hàng không đến cổng một cửa và ngược lại. Theo kết quả ban đầu triển khai, hệ thống một cửa quốc gia rút ngắn nhiều thời gian và các bước làm thủ tục cho DN. Nếu như trước đây phải đi qua ba khâu thủ tục để xuất hàng ra khỏi kho hàng không thì khi triển khai chỉ cần qua một cửa duy nhất, nếu điều kiện đầy đủ thì hàng đã xuất khỏi kho hàng không. Qua đó sẽ tiết kiệm thời gian nộp giấy tờ thủ tục, di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm kia. “Đặc biệt việc cung cấp thông tin trước về hàng hóa giúp cơ quan Hải quan đủ thời gian đánh giá các vấn đề về mặt nghiệp vụ để đưa ra được quyết định nhanh là hàng hóa này được đối xử như thế nào. Các bên đều được hưởng lợi vì hàng hóa được ra quyết định từ trước khi làm các thủ tục đưa hàng ra khỏi kho”- Ông Bình nói.

Mặc dù ủng hộ kế hoạch cải cách của ngành Hải quan nhưng DN cũng mong muốn cơ quan Hải quan làm rõ những vấn đề còn băn khoăn. Chẳng hạn, đại diện Hãng hàng không Thái cho rằng, cần cân nhắc khung thời gian chuyển thông tin đến cơ quan Hải quan. Một số chỉ tiêu thông tin như số ghế của hành khách, số lượng thành viên tổ bay chỉ nên yêu cầu cung cấp nếu có thay vì “bắt buộc” như dự kiến trong dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định thủ tục điện tử đối với tàu bay XC, NK, quá cảnh thông qua Cơ chế một cửa quốc gia vì: Số ghế của hành khách có thể chỉ chắc chắn có khi họ làm thủ tục check-in; không phải hãng hàng không nào cũng cập nhật số lượng và tên các thành viên tổ bay trong dữ liệu đặt chỗ trước…

Giải đáp về thắc mắc của DN, Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan Âu Anh Tuấn cho biết, trong dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 08/2015/NĐ-CP đã quy định rõ thời điểm cung cấp thông tin, cụ thể đối với chuyến bay ngắn quy định hãng hàng không cung cấp thông tin (danh sách hành khách, hàng hóa, thông tin phi hành đoàn, hành lý ký gửi) trước 30 phút trước khi hạ cánh. Như vậy, thời gian đó đủ cho hãng hàng không gửi thông tin đến cơ quan Hải quan, dù chuyến bay ngắn.

Trên cơ sở kết quả chạy thử kết nối hệ thống giữa Hải quan và DN kho trong thời gian vừa qua, Cục Hải quan Hà Nội cho rằng, kinh nghiệm để triển khai thành công dự án này là các DN, hãng hàng không, công ty giao nhận phải nắm được, hiểu được hệ thống thì khi tham gia vào khai thác, sử dụng sẽ thuận lợi. Để đáp ứng lộ trình triển khai theo kế hoạch của Tổng cục Hải quan (tháng 10/2017), trong thời gian này, Cục Hải quan Hà Nội sẽ tiếp tục phối hợp với các đơn vị thuộc Tổng cục Hải quan chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống; song song tổ chức tập huấn, hướng dẫn đối với các đối tượng có liên quan bao gồm cả các bộ, ngành và các đối tượng làm thủ tục XNK liên quan đến hàng hóa, hành lý để thống nhất, hiểu đúng khi triển khai áp dụng không xảy ra sai xót.

Yêu cầu cung cấp thông tin trước chuyến bay

Theo Trưởng phòng Giám sát quản lý về hải quan (Cục Hải quan Hà Nội) Đặng Hoàng Điệp: Trong thời gian qua do chưa có hệ thống kết nối với các hãng hàng không nên việc cung cấp thông tin hàng hóa chưa thực hiện được trước, chỉ thực hiện khi tàu bay hạ cảng mới được xuất trình cho hải quan. Thông tin đến cơ quan quản lý nhà nước chậm nên chưa đủ thông tin để phân tích, từ đó đưa ra biện pháp quản lý cho từng đối tượng, dẫn đến có các lô hàng thông quan chậm. Chính vì vậy, cần phải có thông tin trước để phân tích đối tượng, đưa ra các đối tượng cần quản lý, đối tượng qua đánh giá rủi ro tuân thủ tốt pháp luật có thể được thông quan sớm hơn, có thể ngay khi máy bay vừa hạ cánh, vào kho là có thể thông quan ngay.

Ngọc Linh

(ĐỔI MỚI QUẢN LÝ, GIÁM SÁT HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU) BÀI 5: SẴN SÀNG TRIỂN KHAI “MỘT CỬA” ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG

(HQ Online)- Cục Hải quan Hà Nội được Tổng cục Hải quan lựa chọn là đơn vị đầu tiên thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không và Đề án quản lý giám sát hàng hóa đường hàng không (nằm trong Đề án tổng thể của Tổng cục Hải quan về quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không).

Thông tin trước về hành khách, hàng hóa và phương tiện sẽ giúp các cơ quan quản lý chủ động nắm bắt thông tin, rút ngắn thời gian thông quan. Ảnh: N.Linh.

Đảm đương nhiệm vụ “dò đường” là sức ép không hề nhỏ đối với Cục Hải quan Hà Nội. Với sự cố gắng của cơ quan Hải quan và đồng thuận của cộng đồng DN, đến nay 100% hãng hàng không đã đăng ký tham gia; hệ thống một cửa đã tiếp nhận được thông tin điện tử về phương tiện, hành lý từ 100% hãng hàng không gửi tới hệ thống; cơ quan Hải quan cũng đang phối hợp với các DN kinh doanh kho hàng không mở rộng tiếp nhận thông tin điện tử về hàng hóa. Những kết quả bước đầu tại Cục Hải quan Hà Nội sẽ là tiền đề để ngành Hải quan triển khai chính thức trên phạm vi toàn quốc.

Từ sự kết nối rời rạc…

Trong những năm qua, thực hiện kế hoạch cải cách hiện đại hóa của Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan Hà Nội  luôn chú trọng đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính và hiện đại hóa trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ CNTT trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, trong công tác quản lý hải quan, Cục Hải quan Hà Nội nhận thấy cách thức quản lý đối với hàng hóa, hành lý đường hàng không tại cảng hàng không quốc tế còn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại, việc giám sát/quản lý và đánh giá đối tượng trọng điểm còn thiếu thông tin.

Theo phân tích của ông Đặng Hoàng Điệp, Trưởng phòng Giám sát quản lý về hải quan (Cục Hải quan Hà Nội), trước khi triển khai Cơ chế một cửa quốc gia, các cơ quan quản lý nhà nước (Công an cửa khẩu, Hải quan, Cảng vụ…) làm thủ tục thủ công, riêng rẽ, chưa thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin giữa các bên; chưa thực hiện tiếp nhận thông tin điện tử từ DN. Trong khi các DN kinh doanh liên quan đường hàng không đều đã kết nối, trao đổi thông tin dạng điện tử… Điều này gây khó khăn trong phát hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm do thiếu thông tin. Đối với cơ quan Hải quan, thông tin về hàng hóa ra/vào kho hàng không được cung cấp bằng bản giấy mất khá nhiều thời gian, thường một ngày cung cấp hai lần cho tất cả các chuyến bay, vừa thừa vừa thiếu thông tin gây khó khăn cho công tác quản lý, giám sát.

Đối với các hãng hàng không phải nộp hồ sơ giấy cùng một lúc cho 5 cơ quan quản lý nhà nước tại Cảng hàng không quốc tế gồm: Hải quan, Công an, Cảng vụ hàng không, cơ quan Kiểm dịch y tế (Bộ Y tế) và cơ quan Kiểm dịch động thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Như vậy, DN phải chuẩn bị nhiều bộ hồ sơ giống nhau và khai báo nhiều lần cùng một loại thông tin tới các cơ quản quản lý nhà nước.

Đối với DN kinh doanh kho hàng không, việc trao đổi thông tin bằng phương pháp thủ công giữa cơ quan Hải quan và DN kinh doanh kho đã gây ra rất nhiều khó khăn cho cơ quan Hải quan trong việc quản lý và báo cáo thống kê; đặc biệt là việc theo dõi hàng vào/ra, hàng tồn kho, hàng quá hạn làm thủ tục hải quan,… làm mất rất nhiều thời gian, tốn nhân lực, độ chính xác và kịp thời của số liệu thống kê khó đảm bảo.

Chính vì những bất cập trong công tác quản lý đối với hàng hóa, hành lý tại sân bay quốc tế, Cục Hải quan Hà Nội đã chủ động đề xuất Tổng cục Hải quan cho phép triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đối với đường hàng không và Đề án quản lý giám sát hàng hóa đường hàng không tại cảng hàng không quốc tế Nội Bài.

… Đến tiếp nhận thông tin điện tử

Tháng 9/2016, Tổng cục Hải quan thành lập Ban chỉ đạo triển khai Cơ chế một cửa đường hàng không. Cục Hải quan Hà Nội được giao nhiệm vụ là đầu mối tổ chức khảo sát, thu thập và phân tích thông tin; điều phối các hoạt động phối hợp với các cơ quan tại sân bay quốc tế Nội Bài; tổ chức tuyên truyền, vận động DN tham gia Cơ chế một cửa quốc gia; đề xuất với Tổng cục Hải quan về quy trình, mô hình quản lý, danh sách yêu cầu chức năng trên hệ thống quản lý, giám sát hàng hóa đường hàng không.

Để triển khai, Cục Hải quan Hà Nội đã sớm xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc với các hãng hàng không, đại lý hàng không, công ty kinh doanh kho bãi và các công ty giao nhận nằm trên địa bàn để nghiên cứu thực tiễn tại sân bay, từ đó có lộ trình làm việc và đặt ra yêu cầu quản lý và làm việc với từng đối tượng cụ thể.

Từ tháng 8/2016 đến 6/2017, 4 đợt khảo sát và 39 cuộc họp và phiên làm việc với các bên tham gia được Cục Hải quan Hà Nội tổ chức. Do đây là dự án liên quan đến nhiều đơn vị ngoài ngành, nên Cục Hải quan Hà Nội đã chủ động lên lịch làm việc với các đơn vị có liên quan; tổ chức làm việc với các hãng hàng không, trực tiếp đôn đốc từng hãng tham gia triển khai Cơ chế một cửa quốc gia. Trong thời gian này, để học hỏi kinh nghiệm của hải quan các nước, nghiên cứu các chuẩn mực quốc tế, Cục Hải quan Hà Nội đã tổ chức đoàn cán bộ đi tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc; khảo sát thực tế và làm việc với các kho hàng không, cảng vụ hàng không và các hãng hàng không. Từ đó đề xuất mô hình quản lý, xây dựng bài toán nghiệp vụ quản lý tổng thể đối với hàng hóa, hành lý đường hàng không, dự thảo đề xuất danh sách các chức năng hệ thống và các quy định pháp lý để triển khai.

Cũng theo ông Đặng Hoàng Điệp, do có sự chủ động và phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị tham gia triển khai, hệ thống một cửa hàng không đã được đưa vào vận hành thí điểm từ ngày 1/1/2017, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng phương pháp điện tử tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Từ ngày 25/5, hệ thống một cửa quốc gia đã có thể tiếp nhận thông tin điện tử (dạng điện văn hàng không) về phương tiện, hành khách, hành lý từ tất cả 100% các hãng hàng không gửi tới hệ thống. Bên cạnh đó, cơ quan Hải quan đã thực hiện tiếp nhận đầy đủ thông tin khai thác bay từ 9 cảng hàng không quốc tế và thông tin về hành khách, phương tiện, hành khách trước chuyến bay từ tất cả các hãng hàng không thông qua hệ thống một cửa quốc gia.

Về hàng hóa, từ ngày 1/4, Cục Hải quan Hà Nội đã phối hợp với Tổng cục Hải quan và 3 DN kinh doanh kho hàng không (ALSC, ACSV và NCTS) mở rộng triển khai tiếp nhận thông tin điện tử về hàng hóa đối với gần 30 hãng hàng không do các kho này phục vụ tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài. Cũng từ 1/4, cơ quan Hải quan đã thực hiện thí điểm soi chiếu trước thông quan đối với hàng NK và sau thông quan (trước khi hàng ra khỏi kho) đối với hàng XK dựa trên thông tin tiếp nhận trước.

Theo ông Đặng Hoàng Điệp, với việc triển khai Cơ chế một cửa quốc gia đường hàng không và Đề án quản lý giám sát hàng hóa đường hàng không sẽ mang lại hiệu quả lớn cho các hãng hàng không, DN kinh doanh kho, bãi. Thông qua thời gian đầu triển khai những kết quả bước đầu ghi nhận là hệ thống hoạt động thông suốt. Lợi ích đầu tiên của Đề án này là phục vụ trước tiên cho hoạt động XNK của DN, đảm bảo rút ngắn thời gian thông quan tạo thuận lợi cho hoạt động XNK. Song song, các khâu quản lý của cơ quan quản lý nhà nước chủ động hơn nắm bắt được thông tin hàng hóa XNK, hành khách XNC đến sân bay từ đó có các biện pháp quản lý.

Ông Âu Anh Tuấn-Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan cho biết, Tổng cục Hải quan đang hoàn thiện toàn bộ văn bản hỗ trợ triển khai Cơ chế một cửa quốc gia hàng không cũng như thực hiện mô hình giám sát hàng hóa mới. Dựa trên cơ sở đó sẽ không còn việc thực hiện thủ công như hiện nay. Toàn bộ việc trao đổi thông tin giữa hàng không với cơ quan Hải quan sẽ thực hiện trên hệ thống một cửa quốc gia, việc trao đổi thông tin về hàng hóa XK, NK đưa vào đưa ra kho bãi cảng hàng không sẽ thực hiện trên hệ thống. Đồng thời cơ quan Hải quan sẽ cung cấp thông tin lô hàng đủ điều kiện ra khỏi khu vực kho hàng không, cũng như lô hàng đủ điều kiện đưa vào kho hàng không để xếp lên phương tiện vận tải thông qua hệ thống, không có việc xuất trình tờ khai giấy, khi lô hàng đã thông quan, DN chỉ cần đến làm việc với DN cảng mà không phải đến cơ quan Hải quan xác nhận như hiện nay. Như vậy sẽ giảm được thủ tục tại khâu giám sát hàng hóa.
Ngọc Linh

(ĐỔI MỚI QUẢN LÝ, GIÁM SÁT HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU) BÀI 2: CHUYỆN GHI Ở “ĐƠN VỊ MỞ ĐƯỜNG”

(HQ Online)- Triển khai từ cuối năm 2015, Hải quan Hải Phòng là đơn vị đầu tiên thực hiện việc kết nối với DN kinh doanh cảng để trao đổi thông tin phục vụ giám sát hàng hóa XNK và đã mang lại kết quả bước đầu.

Phó Tổng cục trưởng Vũ Ngọc Anh phát biểu tại Hội thảo “Triển khai giải pháp quản lý, giám sát hàng hóa XNK qua khu vực kho, bãi, cảng biển”, tổ chức tại trụ sở Cục Hải quan Hải Phòng ngày 5/5. Ảnh: T.Bình.

Tuy nhiên trong giai đoạn này, việc phối hợp vẫn còn sơ khai và dừng ở mức trao đổi thông tin và chưa giải quyết được tổng thể bài toán quản lý. Đề án “Giám sát, kiểm soát hàng hóa XNK qua khu vực kho, bãi, cảng Hải Phòng trên Hệ thống thông quan điện tử” (nằm trong Đề án tổng thể của Tổng cục Hải quan về quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không) đang được Cục Hải quan Hải Phòng tích cực triển khai sẽ giải quyết một cách căn bản, đầy đủ các quy định của Luật Hải quan về quản lý, giám sát hàng hóa XNK. Đây cũng là nhiệm vụ được Tổng cục Hải quan chỉ đạo đơn vị triển khai để nhân rộng trong toàn Ngành.

Doanh nghiệp manh mún

Đặc thù của hệ thống cảng Hải Phòng có chiều dài khoảng 20 km, nhưng phát triển nhỏ lẻ, manh mún, mỗi cảng có cơ sở hạ tầng, công nghệ, quy trình, cách thức quản lý, khai thác hàng vào ra cảng khác nhau tùy theo đặc thù của từng cảng. Vì vậy, công tác quản lý của cơ quan Hải quan đối với hoạt động của các DN cảng cũng như quản lý hàng hóa ra, vào, lưu giữ trong khu vực cảng gặp rất nhiều khó khăn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng cảng biển Hải Phòng thành cửa ngõ giao thương quốc tế hiện đại lớn nhất khu vực miền Bắc.

Theo phân tích của Cục Hải quan Hải Phòng, thực trạng trong công tác quản lý của các DN kinh doanh cảng, kho bãi hiện nay là một số DN còn quản lý thủ công, chưa có hệ thống CNTT quản lý nội bộ. Một số DN đã triển khai kết nối trao đổi thông tin với cơ quan Hải quan nhưng trang thiết bị lạc hậu nên thông tin chuyển cho cơ quan Hải quan chậm, chưa theo thời gian thực nên ảnh hưởng đến hiệu năng của hệ thống, chưa đảm bảo yêu cầu quản lý. Đơn cử như tại cảng Tân Vũ (Công ty CP cảng Hải Phòng) thông tin hạ bãi đối với hàng nhập có độ trễ từ 3 đến 6 giờ dẫn đến tình trạng DN XNK đã hoàn thành thủ tục hải quan nhưng khi ra cảng vẫn phải chờ DN cảng cập nhật thông tin để xác nhận hàng hóa đủ điều kiện ra khỏi khu vực giám sát hải quan.

Mặt khác, một số DN có quy trình quản lý hàng hóa XK chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hải quan theo quy định của Luật Hải quan, ví dụ cho xếp hàng lên tàu theo danh sách của hãng tàu, nhưng không kiểm tra điều kiện thông quan của cơ quan Hải quan… Ngoài ra, có DN không phân chia được khu vực riêng cho hàng hóa XNK hay hàng nội địa do điều kiện mặt bằng nhỏ gây khó khăn cho công tác giám sát, kiểm soát hải quan, cần phải có giải pháp để quản lý tốt hơn.

Đáng chú ý, nhiều nội dung chỉ tiêu thông tin cần báo cáo cho cơ quan Hải quan nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhưng chưa có quy trình, quy định cụ thể, hoặc có nhưng DN chưa báo cáo kịp thời hoặc chưa có cách thức báo cáo nhanh, tự động qua hệ thống điện tử.

Hải quan cũng khó

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Hải quan là giám sát hàng hóa XNK. Nhưng rõ ràng, với thực tế của hệ thống quản lý của các DN tại cảng biển Hải Phòng như đề cập ở trên thì công tác quản lý, giám sát hàng hóa XNK của cơ quan Hải quan phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, rủi ro. Đây không chỉ là áp lực với cơ quan Hải quan mà còn là mối nguy với an ninh, an toàn và môi trường sản xuất, kinh doanh trong nước.

Theo Cục Hải quan Hải Phòng, do chưa có quy trình tổng thể bao quát tất cả các trường hợp và thống nhất giữa các DN kinh doanh cảng, kho bãi với cơ quan Hải quan nên việc quản lý gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Điển hình như trường hợp tờ khai chung container nhưng khác chủ hàng dẫn đến giao nhầm hàng hóa, hoặc khi một trong các tờ khai chung container chưa hoàn thành thủ tục hải quan đã thực hiện giao hàng cho chủ hàng dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro về mặt pháp lý… Đặc biệt, nhiều trường hợp DN cảng và cơ quan Hải quan lúng túng trong quá trình xử lý, phối hợp, trao đổi thông tin khi hàng bị rút ruột tại bãi, hàng hóa đóng trong container nhưng thông quan một phần, hàng hạ bãi chuyển máy soi…

Một thực trạng nữa là quy định về quản lý rủi ro mới chỉ có bộ chỉ số đánh giá tuân thủ đối với DN XNK, chưa có bộ chỉ số đánh giá tuân thủ đối với DN cảng, kho bãi, các hệ thống của cơ quan Hải quan chưa có chức năng thu thập, xử lý thông tin để đánh giá tuân thủ đối với đối tượng DN này cũng như chưa có chức năng thiết lập tiêu chí lựa chọn để xử lý tự động hoặc đưa ra cảnh báo đối với các DN kinh doanh cảng mặc dù việc thu thập thông tin đối với DN kinh doanh cảng, kho bãi đã được quy định trong Quyết định 464/QĐ-TCHQ của Tổng cục Hải quan.

Đáp ứng quy định và đòi hỏi từ thực tiễn

Lãnh đạo Phòng Giám sát quản lý về hải quan (Cục Hải quan Hải Phòng) cho biết: Việc thực hiện kết nối giữa cơ quan Hải quan và DN kinh doanh cảng theo Điều 41 Luật Hải quan được thực hiện thí điểm bước đầu tại đơn vị và một số cục hải quan địa phương mới chỉ giải quyết được việc kết nối, trao đổi thông tin giữa cơ quan Hải quan và DN kinh doanh cảng, chưa giải quyết được bài toán quản lý tổng thể được quy định trong Luật Hải quan.

Do vậy, Đề án “Giám sát, kiểm soát hàng hóa XNK qua khu vực kho, bãi, cảng Hải Phòng trên Hệ thống thông quan điện tử” sẽ cụ thể hóa tất cả các nội dung quy định của Luật Hải quan về phối hợp giám sát, quản lý hàng hóa XNK. Đề án mang tính đột phá trong quản lý hải quan, cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa hải quan. Theo đó toàn bộ hàng hóa XNK ra vào khu vực kho, bãi, cảng biển được giám sát quản lý hải quan trên hệ thống điện tử của DN kinh doanh kho, bãi, cảng kết nối với hệ thống của cơ quan Hải quan. Như vậy, việc thực hiện Đề án tại Hải quan Hải Phòng vừa thực hiện đầy đủ các quy định trong Luật Hải quan, vừa là đòi hỏi từ thực tiễn để khắc phục các khó khăn, bất cập như đề cập ở trên, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý, tạo thuận lợi cho hoạt động XNK.

Để triển khai Đề án, Cục Hải quan Hải Phòng đã thành lập Ban triển khai Đề án do Cục trưởng làm Trưởng ban. Thời gian qua, Ban triển khai đã nghiên cứu và đưa ra bài toán yêu cầu quản lý; xây dựng lộ trình triển khai và hướng dẫn thực hiện các tác nghiệp của DN với cơ quan Hải quan; tiến hành họp với các đơn vị kinh doanh kho, bãi, cảng Hải Phòng để thống nhất chủ trương thực hiện và chuẩn bị đầu tư cơ sở vật chất, con người… Đến nay, các DN đã xây dựng bài toán quản lý trên phần mềm; và có 67 DN kinh doanh cảng, kho, bãi thuộc sự quản lý tham gia triển khai các bước chuẩn bị.

Đặc biệt, trong tháng 5 vừa qua, Cục Hải quan Hải Phòng đã phối hợp với các đơn vị chức năng của Tổng cục Hải quan tổ chức Hội thảo “Triển khai giải pháp quản lý, giám sát hàng hóa XNK qua khu vực kho, bãi, cảng biển” nhằm giới thiệu giải pháp kỹ thuật kết nối, trao đổi thông tin giữa cơ quan Hải quan và DN kinh doanh kho, bãi, cảng để quản lý hàng hóa XNK, đồng thời mong muốn tiếp nhận ý kiến đóng góp của các đơn vị hải quan và cộng đồng DN để hoàn thiện cơ sở pháp lý, hạ tầng kỹ thuật trong việc kết nối thông tin…

Thái Bình

(ĐỔI MỚI QUẢN LÝ, GIÁM SÁT HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU) BÀI 1: THAY ĐỔI XUẤT PHÁT TỪ THỰC TIỄN

(HQ Online)- Ngành Hải quan đang tích cực xây dựng và triển khai Đề án quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không.

Hàng hóa XNK tại cảng Nam Hải Đình Vũ, Hải Phòng. Ảnh: Thái Bình​​​

Việc triển khai Đề án này nhằm đơn giản hóa, hài hòa thủ tục hải quan với thủ tục của DN kinh doanh kho, bãi, cảng biển, cảng hàng không thông qua việc cơ quan Hải quan áp dụng hệ thống công nghệ thông tin tập trung để trao đổi, cập nhật thông tin với DN kinh doanh cảng, sân bay, kho bãi và các bên liên quan, từ đó rút ngắn thời gian và chi phí làm thủ tục của người khai hải quan. Đồng thời, tăng cường năng lực quản lý của cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra, kiểm soát và giám sát hải quan, nâng cao tính tuân thủ của DN, ngăn ngừa gian lận thương mại, phòng chống buôn lậu và đảm bảo an ninh. Từ số báo này, Báo Hải quan khởi đăng loạt bài “Ngành Hải quan: Đổi mới trong quản lý, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu” với những thông tin ghi nhận ban đầu về quá trình triển khai Đề án.

Kết nối thông tin còn hạn chế

Thời gian qua, ngành Hải quan đã đẩy mạnh cải cách và hiện đại hóa hải quan, trong đó ứng dụng mạnh mẽ CNTT trong các khâu nghiệp vụ. Kết quả cải cách hiện đại hóa hải quan đã mang đến nhiều thuận lợi cho DN trong quá trình làm thủ tục XNK. Tuy nhiên trong lĩnh vực quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không quốc tế vẫn bộc lộ những bất cập.

Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan (Tổng cục Hải quan) Nguyễn Mạnh Tùng cho rằng, trong lĩnh vực quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không quốc tế vẫn chưa thực sự hiệu quả, sự kết nối trao đổi thông tin giữa cơ quan Hải quan với các DN kinh doanh cảng vẫn còn hạn chế. Điều này dẫn đến việc theo dõi, quản lý hàng tại cảng của cơ quan Hải quan gặp nhiều khó khăn; thời gian lưu giữ hàng hóa của DN lâu, chi phí lưu kho bãi của hàng hóa lớn. Nhận thấy rõ vấn đề này, Điều 41 Luật Hải quan 2014 đã yêu cầu cụ thể các DN kinh doanh cảng phải có sự kết nối, trao đổi thông tin với cơ quan Hải quan. Bên cạnh đó trong công tác quản lý hải quan hiện đại, nhu cầu cần được cung cấp thông tin trước khi tàu và hàng hóa đến cảng, sân bay của Việt Nam là rất quan trọng để áp dụng phương pháp rủi ro đối với hàng hóa XNK.

Trên thực tế, công tác quản lý hải quan qua hệ thống CNTT thời gian qua chủ yếu tập trung ở khâu xử lý, làm thủ tục hải quan; chưa có sự liên thông, kết nối thông suốt giữa các khâu trước, trong thông quan, và trong quá trình vận chuyển hàng hóa đang chịu sự giám sát hải quan. Do đó chưa theo dõi, kiểm soát được đầy đủ trạng thái hàng hóa tại các thời điểm khác nhau từ khi bắt đầu đến khi kết thúc quá trình giám sát; chưa quản lý được chính xác hàng hóa tồn ở các cảng, kho bãi. Bên cạnh đó, quy trình thủ tục hải quan và giao nhận của DN kinh doanh cảng, kho, bãi độc lập với nhau, mất nhiều thời gian làm thủ tục với các bên. Trong khi đó, việc triển khai Điều 41 Luật Hải quan trong thời gian qua mới chỉ thực hiện một phần kết nối giữa Hải quan với DN kinh doanh cảng biển tại Hải Phòng, TP. HCM, Đà Nẵng đối với hàng container.

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, từ năm 2016, ngành Hải quan đã khởi động việc nghiên cứu và triển khai Đề án quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không.

Theo Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin và Thống kê hải quan Nguyễn Mạnh Tùng, một mặt Đề án nhằm đơn giản hóa, hài hòa thủ tục hải quan với thủ tục của DN kinh doanh kho, bãi, cảng biển, cảng hàng không và các bên liên quan thông qua việc cơ quan Hải quan áp dụng hệ thống CNTT tập trung để trao đổi, cập nhật thông tin với DN kinh doanh cảng, sân bay, kho bãi giúp theo dõi chặt chẽ, kịp thời quá trình di chuyển, biến động và tình trạng của hàng hóa từ khi vào đến khi ra khỏi kho bãi, cảng và vận chuyển giữa các địa điểm chịu sự giám sát hải quan; rút ngắn thời gian và chi phí làm thủ tục của người khai hải quan. Việc trao đổi, kết nối thông tin đồng thời tăng cường công tác quản lý của cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra, giám sát và kiểm soát hải quan, nâng cao tính tuân thủ của DN, ngăn ngừa gian lận thương mại, phòng chống buôn lậu và đảm bảo an ninh quốc gia. Mặt khác, nâng cao tính tự động hóa của hệ thống công nghệ thông tin trong việc hỗ trợ công tác kiểm tra, đối chiếu và đánh giá rủi ro, giám sát và kiểm soát hải quan.

Với các mục tiêu nêu trên, Đề án quản lý giám sát, hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không khi được triển khai thành công sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho cơ quan Hải quan, các cơ quan quản lý nhà nước mà bao gồm cả lợi ích cho các DN.

Từng bước kết nối với DN

Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan (Tổng cục Hải quan) Âu Anh Tuấn cho biết, vì đây là nội dung mới nên cần có sự chuẩn bị chu đáo cả về cơ sở hạ tầng CNTT cũng như quy trình xử lý đồng bộ giữa cơ quan Hải quan và các DN cảng, kho, bãi, đồng thời xử lý được các vấn đề đặc thù của từng phương thức vận chuyển cũng như từng địa điểm lưu giữ hàng hóa. Chẳng hạn, cảng biển khác cảng hàng không, hàng hóa vận chuyển bằng container khác với hàng hóa không vận chuyển bằng container… Do đó, thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã thực hiện kế hoạch triển khai theo từng đối tượng để rút kinh nghiệm hoàn thiện cơ sở hạ tầng CNTT cũng như cơ sở pháp lý để việc triển khai đồng bộ đạt hiệu quả cao. Việc triển khai kết nối cũng được mở rộng theo lộ trình để vừa làm vừa rút kinh nghiệm, đồng thời hoàn thiện hệ thống CNTT và kịp thời ban hành những văn bản hướng dẫn để không gây xáo trộn, ảnh hưởng đến hoạt động XK, NK hàng hóa của DN.

Lộ trình triển khai Đề án được chia thành các giai đoạn. Ban đầu triển khai thí điểm tại Cục Hải quan Hải Phòng vào tháng 8/2017 (đối với đường biển) và tại Cục Hải quan TP. Hà Nội vào tháng 10/2017 (đối với đường không), tiếp đó sẽ triển khai mở rộng trên phạm vi toàn quốc tại các cục hải quan tỉnh, thành phố có cảng biển, sân bay quốc tế. Theo nội dung tại kế hoạch nêu trên, các cục hải quan tỉnh, thành phố cần chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện về nguồn lực, tổ chức, hạ tầng công nghệ thông tin, tuyên truyền, hỗ trợ các DN kinh doanh cảng, kho, bãi hiểu rõ yêu cầu và tổ chức triển khai.

Yêu cầu hoàn thiện cơ sở pháp lý và hạ tầng CNTT

Để chuẩn bị cho triển khai trên diện rộng, trong thời gian qua, ngành Hải quan đã tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với việc trao đổi, kết nối thông tin với DN kinh doanh cảng, kho, bãi để việc triên khai được thông suốt (gồm: Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 08/2015/NĐ-CP và Thông tư 38/2015/TT-BTC). Việc sửa đổi dựa trên nguyên tắc quy định cụ thể trách nhiệm của tất cả các đối tượng tham gia vào quá trình vận chuyển, lưu giữ, giao nhận hàng hóa XK, NK đang chịu sự giám sát hải quan tại cảng, kho, bãi, địa điểm; quy định nguyên tắc kết nối, trao đổi thông tin và những thông tin cần trao đổi giữa cơ quan Hải quan và DN kinh doanh cảng, kho, bãi địa điểm; quy định thủ tục để đưa hàng qua khu vực giám sát hải quan của người khai hải quan…

Cùng với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, cơ quan Hải quan tiếp tục hoàn thiện hệ thống CNTT tổng thể để kết nối, trao đổi thông tin với cơ quan kinh doanh kho, bãi, cảng trong hoạt động giám sát hải quan để có thể quản lý xuyên suốt. Cụ thể, khi triển khai Đề án quản lý, giám sát hàng hóa tại cảng biển, cảng hàng không, đối với hàng hóa NK sẽ đảm bảo quản lý, giám sát hàng hóa xuyên suốt từ khi phương tiện vận tải nhập cảnh, dỡ hàng từ phương tiện xuống cảng/kho/bãi, làm thủ tục NK, vận chuyển giữa các địa điểm chịu sự giám sát hải quan, đến khi hàng hóa được di chuyển ra khỏi khu vực giám sát hải quan để tiêu thụ nội địa hoặc chuyển sang chế độ hải quan khác (gia công, sản xuất XK…).

Đối với hàng hóa XK, đảm bảo quản lý, giám sát xuyên suốt từ khi được tập kết để XK, làm thủ tục XK, vận chuyển giữa các địa điểm chịu sự giám sát hải quan, đến khi hàng hóa được xếp lên phương tiện vận tải và di chuyển ra khỏi khu vực giám sát hải quan để XK ra nước ngoài.

Ngọc Linh

MÃ HÓA CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ, KIỂM TRA CHUYÊN NGÀNH: CHÌA KHÓA ĐỒNG BỘ VNACCS VÀ MỘT CỬA QUỐC GIA

(HQ Online)- Mã hóa các chứng từ kiểm tra chuyên ngành (KTCN) và quản lý chuyên ngành là yêu cầu quan trọng nhằm thực hiện tốt yêu cầu quản lý nhà nước đối với hàng hóa XNK thuộc diện quản lý chuyên ngành và KTCN, đồng thời để đồng bộ việc trao đổi thông tin giữa Cổng thông tin một cửa quốc gia và Hệ thống thông quan điện tử VNACCS/VCIS.

Hoạt động nghiệp vụ tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Đà Nẵng. Ảnh: N.Linh.

Để phục vụ yêu cầu này, Tổng cục Hải quan tổ chức đợt rà soát tập trung (từ ngày 7 đến 10/6) các thủ tục hành chính (TTHC) về chính sách quản lý đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.

Ông Ngô Minh Hải – Phó Cục trưởng Cục Giám sát quản lý về hải quan cho biết, công tác rà soát văn bản về quản lý và KTCN đã được Tổng cục Hải quan thường xuyên thực hiện. Đặc biệt là từ khi triển khai chỉ đạo của Chính phủ tại Quyết định 2026/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTCN và các Nghị quyết 19 trong 4 năm qua. Có thể thấy, công tác rà soát TTHC về chính sách quản lý với hàng hóa XNK có vai trò quan trọng trong cải cách hành chính. Qua rà soát, cơ quan Hải quan đã kiến nghị Chính phủ chỉ đạo bộ, ngành liên quan sửa đổi nhiều TTHC theo hướng đơn giản hơn, tạo thuận lợi cho hoạt động XNK, thông quan hàng hóa. Theo ông Ngô Minh Hải, việc rà soát nhằm mã hóa các chứng từ KTCN và quản lý chuyên ngành là việc không thể không có để phục vụ khai báo hải quan điện tử.

Trong đợt rà soát lần này, Tổng cục Hải quan và cục hải quan các tỉnh, thành phố đặt ra yêu cầu phải rà soát toàn bộ TTHC về chính sách quản lý của các bộ, ngành đối với hàng hóa XNK, bao gồm 270 TTHC/chính sách quản lý. Trong đó gồm: Giấy phép NK, giấy phép XK; thông báo đạt/miễn kiểm tra chất lượng/an toàn thực phẩm/kiểm dịch…. Cơ quan Hải quan cũng rà soát cả các loại giấy tờ/chứng từ yêu cầu cần cung cấp trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan mà không phải là kết quả TTHC của bộ, ngành (hay nói cách khác là các điều kiện để NK hàng hóa). Ví dụ như: Giấy chứng nhận đăng ký DN, giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy chứng nhận kinh doanh trong đó có ngành nghề phân bón do cơ quan có thẩm quyền cấp…

Đối với mỗi TTHC/chính sách quản lý, cần rà soát xem đã đúng, đủ chưa về các nội dung như: Cơ quan ban hành văn bản quy định về chính sách quản lý; loại chính sách quản lý (cấm, giấy phép, giấy phép tự động, hạn ngạch, kiểm tra chất lượng, kiểm dịch động vật, kiểm dịch thực vật, kiểm tra an toàn thực phẩm…); TTHC; kết quả TTHC; hiệu lực của kết quả TTHC; đối tượng loại trừ; căn cứ pháp lý; Danh mục hàng hóa áp dụng; thời điểm xuất trình/nộp chứng từ…

Với khối lượng danh mục TTHC quy định về chính sách quản lý đối với hàng hóa XNK lớn, đại diện Cục Giám sát quản lý về hải quan cũng đặt ra những nội dung dự kiến sẽ gây khó khăn rất lớn khi rà soát, chẳng hạn như Danh mục hàng hóa áp dụng. Do các bộ, ngành ban hành văn bản không có sự thống nhất, có những văn bản không kèm theo danh mục, có văn bản thì đưa ra danh mục nhưng chỉ điều chỉnh đối với một mặt hàng hoặc một vài mặt hàng, hay thậm chí có những danh mục mặt hàng như thức ăn chăn nuôi thì lại nằm trong hàng loạt văn bản khác nhau… Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải rà soát toàn bộ danh mục mặt hàng đó.

Từ kết quả đợt rà soát, Tổng cục Hải quan sẽ xây dựng danh mục thủ TTHC quy định về chính sách quản lý đối với hàng hóa XNK chi tiết nhất có thể, để phục vụ việc áp mã và mã hóa trên hệ thống thông quan điện tử của cơ quan Hải quan cũng như là đồng bộ trao đổi thông tin với Cổng thông tin một cửa quốc gia. 

Trong thời gian qua, với vai trò là đơn vị được Bộ Tài chính giao chủ trì triển khai Quyết định 2026/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết của Chính phủ liên quan đến công tác KTCN và quản lý chuyên ngành đối với hàng hóa XNK, Tổng cục Hải quan đã thành lập Tổ chuyên trách gồm 30 thành viên là cán bộ của các đơn vị thuộc và trực thuộc Tổng cục Hải quan.

Trong năm 2016, đầu năm 2017 Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) đã chủ động chủ trì phối hợp với đơn vị chức năng liên quan thuộc các bộ, ngành để đôn đốc triển hai thực hiện các nhiệm vụ liên quan công tác KTCN đối với hàng hóa XNK; lãnh đạo Tổng cục Hải quan đã trực tiếp làm việc với lãnh đạo một số bộ quản lý chuyên ngành để kiến nghị về thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao trong Quyết định 2026/QĐ-TTg và Nghị quyết 19/NQ-CP của Chính phủ. Sau các đợt rà soát, Bộ Tài chính đã có báo cáo gửi các bộ và báo cáo Văn phòng Chính phủ về kết quả triển khai.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính (Tổng cục Hải quan) đã chủ động triển khai nhiều giải pháp nhằm đơn giản hóa TTHC về KTCN, giảm thời gian thông quan hàng hóa XNK. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng cổng thông tin về KTCN trong Cổng Thông tin một cửa quốc gia. Trong khi chờ Cổng thông tin một cửa quốc gia hoàn thiện, Cục Hải quan TP.Hồ Chí Minh đã chủ động xây dựng Cổng thông tin KTCN để giải quyết yêu cầu đặt ra phục vụ cho hoạt động KTCN. Chương trình này đã được triển khai tại Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Sài Gòn khu vực 1, Chi cục Hải quan cửa khẩu sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và Chi cục Hải quan Chuyển phát nhanh, phục vụ thiết thực cho hoạt động KTCN tại địa điểm này.

Tổng cục Hải quan đã tổ chức triển khai công tác kiểm tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm của Cục Kiểm định hải quan. Theo đó, Cục Kiểm định hải quan thực hiện thí điểm tiếp nhận một số mặt hàng mà đơn vị có đủ năng lực triển khai (phân bón, đồ chơi bằng nhựa); trang bị phòng kiểm định di động để phục vụ công tác KTCN tại các tỉnh khu vực biên giới phía Bắc (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai). Nâng cấp trang thiết bị, cơ sở vật chất, số lượng cán bộ KTCN theo hướng chuyên sâu cho các khu vực có lưu lượng XNK hàng hóa nhiều phải kiểm tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.

Ngọc Linh

Nguồn: http://www.baohaiquan.vn/

NHIỀU ĐIỂM MỚI TRONG QUẢN LÝ TRANG THIẾT BỊ Y TẾ, DƯỢC

(HQ Online)- Ngày 10/5 Bộ Y tế tổ chức Hội thảo Những điểm cần chú ý trong thực hiện Luật Dược số 105/2016/QH13 và Nội dung cơ bản của Nghị định 36/2016/NĐ-CP về quản lý trang thiết bị y tế.

Theo quy định trang thiết bị y tế phải được kiểm chuẩn định kỳ về chất lượng sản phẩm hàng hóa, hiệu chuẩn theo quy định của nhà sản xuất. Ảnh: DN

Theo đại diện Vụ Trang thiết bị và Công trình y tế, Bộ Y tế, Nghị định 36/2016/NĐ-CP có một số điểm mới yêu cầu DN phải cập nhật thông tin để có sự chuẩn bị về hồ sơ thủ tục cần thiết khi muốn tiến hành sản xuất kinh doanh trang thiết bị y tế. 

Đơn cử như trang thiết bị y tế phải được kiểm chuẩn định kỳ về chất lượng sản phẩm hàng hóa, hiệu chuẩn theo quy định của nhà sản xuất, trừ trường hợp trang thiết bị y tế là phương tiện đo bức xạ hoặc thiết bị bức xạ thực hiện theo quy định của pháp luật về đo lường và năng lượng nguyên tử.

Bên cạnh đó từ ngày 1/1/2017 các trang thiết bị y tế ở thị trường Việt Nam đều phải thực hiện việc phân loại để phục vụ cho công tác quản lý. Việc phân loại thiết bị y tế được thực hiện theo nhóm và quản lý theo vòng đời sản phẩm sẽ được áp dụng đối với tất cả các loại trang thiết bị khi cấp số tiếp nhận công bố lưu hành sản phẩm (tại Sở Y tế) và số đăng ký tại Bộ Y tế. Trang thiết bị y tế sẽ được phân loại quản lý theo mức độ rủi ro thay vì phân loại theo nhóm kỹ thuật như trước đây với 4 mức A, B, C và D.

“Các quy định trên nhằm bảo đảm việc chịu trách nhiệm về chất lượng trang thiết bị y tế lưu hành, ngăn chặn thiết bị nhập lậu, không rõ nguồn gốc, giảm thiểu thấp nhất rủi ro cho người bệnh”, đại diện Vụ Trang thiết bị và Công trình y tế cho biết.

Ngoài ra, để hạn chế tình trạng mua bán lòng vòng, đẩy giá thiết bị cao bất hợp lý, tới đây các địa phương phải công khai trên websie về giá trúng thầu trang thiết bị y tế, làm cơ sở để các đơn vị tham khảo khi xây dựng kế hoạch, phê duyệt giá đấu thầu.

Với lĩnh vực dược, theo đại diện Cục Quản lý Dược, Luật Dược 2016 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2017 có nhiều điểm mới như nhiều các cơ sở hoạt động dược được hoạt động mà không cần Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dược gồm: Cơ sở có hoạt động dược nhưng không vì mục đích thương mại; cơ sở kinh doanh có tổ chức kệ thuốc; cơ sở nuôi trồng, thu hái dược liệu; cơ sở y tế thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hoạt động cung ứng thuốc tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng có Điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Ngoài ra Luật cũng có quy định mới trong việc thu hồi thuốc được ban hành gồm: Thu hồi tự nguyện là thu hồi do cơ sở đăng ký thuốc, cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu hoặc ủy thác nhập khẩu thuốc tự nguyện thực hiện; thu hồi bắt buộc là thu hồi theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong trường hợp thu hồi quy định tại Điều 62 của Luật Dược 2016.

Cũng theo quy định mới, việc xử lý thuốc bị thu hồi được thực hiện theo luật sẽ do Bộ Y tế ra quyết định thu hồi thuốc trong trường hợp thuốc bị thu hồi bắt buộc và trường hợp thu hồi tự nguyện khi thuốc vi phạm ở mức độ 1, mức độ 2. Thời gian ra quyết định thu hồi thuốc không quá 24 giờ kể từ khi có kết luận thuốc thuộc trường hợp phải thu hồi và mức độ vi phạm của thuốc hoặc có kết luận về việc thu hồi thuốc tự nguyện không phù hợp với mức độ vi phạm của thuốc.

Người đứng đầu cơ sở đăng ký thuốc, cơ sở sản xuất thuốc trong nước, cơ sở pha chế, chế biến, bào chế thuốc, cơ sở nhập khẩu hoặc ủy thác nhập khẩu thuốc ra quyết định thu hồi thuốc trong trường hợp thu hồi tự nguyện thuốc vi phạm ở mức độ 3 sau khi có ý kiến của Bộ Y tế.Thời gian ra quyết định thu hồi thuốc không quá 24 giờ kể từ khi có ý kiến của Bộ Y tế.

Ngoài ra theo quy định tại Khoản 1 Điều 60 Luật Dược số 105/2016/QH13 có điểm mới là nguyên liệu làm thuốc là dược chất để sản xuất thuốc theo hồ sơ đăng ký thuốc đã có giấy đăng ký lưu hành thuốc tại Việt Nam được nhập khẩu không phải thực hiện việc xin giấy phép nhập khẩu trừ các loại thuốc như thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, tiền chất, thuốc dạng phối hợp có chất gây nghiện, thuốc phóng xạ, đồng vị phóng xạ, thuốc độc, nguyên liệu làm thuốc độc…

D.Ngân