XUẤT KHẨU NÔNG LÂM THỦY SẢN NĂM 2017 ĐẠT 36,37 TỶ USD

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 12 năm 2017 ước đạt 3,13 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng này năm 2017 đạt con số 36,37 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2016.

Xuất khẩu, nông sản, lâm sản, thủy sản
Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu có sự gia tăng cả về khối lượng và giá trị

Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 18,96 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2016; giá trị xuất khẩu thủy sản ước đạt 8,32 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2016; giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 7,97 tỷ USD, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong số các mặt hàng nông sản, gạo, cao su, chè, hạt điều là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng cả về lượng và giá trị. Cụ thể, đối với mặt hàng gạo, khối lượng xuất khẩu tháng 12 năm 2017 ước đạt 426 nghìn tấn với giá trị đạt 199 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo năm 2017 ước đạt 5,89 triệu tấn và 2,66 tỷ USD, tăng 22,4% về khối lượng và tăng 23,2% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá gạo xuất khẩu bình quân 11 tháng năm 2017 đạt 450,9 USD/tấn, giảm 0,37% so với cùng kỳ năm 2016. Trong số các thị trường gạo xuất khẩu, Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 11 tháng năm 2017 với 39,5% thị phần. bo chuyen doi tin hieu pt100 

Đối với mặt hàng cao su, ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 12 năm 2017 đạt 175 nghìn tấn với gái trị đạt 253 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cao su năm 2017 ước đạt 1,39 triệu tấn và 2,26 tỷ USD, tăng 11% về khối lượng và 35,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá cao su xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2017 đạt 1.654,7 USD/tấn, tăng 28,3% so với cùng kỳ năm 2016.   cam bien nhiet do pt100 

Tương tự đối với mặt hàng chè, năm 2017, khối lượng chè xuất khẩu ước đạt 140 nghìn tấn và 229 triệu USD, tăng 7,2% về khối lượng và tăng 5,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Trong 11 tháng đầu năm 2017, khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan – thị trường lớn nhất của Việt Nam với 29,8% thị phần, giảm 12,8% về khối lượng và giảm 8,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Các thị trường có giá trị xuất khẩu chè trong 11 tháng đầu năm 2017 tăng mạnh là Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Đài Loan, Ả Rập XêÚt.

Cùng với các mặt hàng nông sản nói trên, năm 2017, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng hạt điều có sự tăng nhẹ về khối lượng nhưng giá trị tăng cao do tăng giá. Cụ thể, năm 2017, khối lượng xuất khẩu hạt điều ước đạt 353 nghìn tấn và 3,52 tỷ USD, tăng 1,9% về khối lượng và tăng 23,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Giá điều xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2017 đạt 9.926,3 USD/tấn, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2016. Hoa Kỳ, Hà Lan và Trung Quốc vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm thị phần lần lượt là 35%, 15,6% và 12,9%.

Trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu, cà phê là mặt hàng duy nhất có sự sụt giảm cả về khối lượng và giá trị xuất khẩu. Cụ thể, năm 2017, khối lượng cà phê xuất khẩu ước đạt 1,42 triệu tấn và 3,21 tỷ USD, giảm 20,2% về khối lượng và 3,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2017 với thị phần lần lượt là 14,6% và 12,7%.

Cũng theo Bộ NN&PTNT, giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 12 năm 2017 ước đạt 2,46 tỷ USD, đưa giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản trong 12 tháng năm 2017 đạt 27,82 tỷ USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2016. Như vậy, tính chung năm 2016, ngành nông nghiệp xuất siêu 8,55 tỷ USD.

Nguyễn Hạnh

Nguồn: http://baocongthuong.com.vn

LẦN ĐẦU TIÊN XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU CÙNG ĐẠT TRÊN 200 TỶ USD

(HQ Online)- Thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, lần đầu tiên tổng trị giá kim ngạch xuất khẩunhập khẩu của cả nước cùng đạt mức trên 200 tỷ USD.
Xuất khẩu, Nhập khẩu, kim ngạch
Hàng hóa XNK tại khu vực cảng Hải Phòng. Ảnh: T.Bình.

Theo Tổng cục Hải quan, tính đến hết 15/12, tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu đạt 204 tỷ USD, trong khi đó tổng trị giá kim ngạch nhập khẩu đạt gần 201,3 tỷ USD.

Như vậy, so với cùng kỳ 2016, tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu tăng thêm khoảng 36 tỷ USD, tương đương tốc độ tăng trưởng gần 21,5%; ở chiều nhập khẩu, con số tăng thêm cũng rất ấn tượng đạt khoảng 35 tỷ USD, tăng gần 21,3%.

Một số thay đổi đáng chú ý trong hoạt động xuất khẩu là sự tăng trưởng mạnh mẽ của nhóm hàng điện thoại và máy tính.

So với cùng kỳ năm ngoái, mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng thêm 10 tỷ USD, đạt trị giá kim ngạch 43,19 tỷ USD là nhóm hàng có con số tuyệt đối tăng thêm nhiều nhất và cũng là nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất cả nước.

Trong khi đó, xét về tốc độ tăng trưởng, mặt hàng máy tính là một trong những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực có tốc độ tăng lớn nhất với mức tăng 38%, đạt trị giá kim ngạch 24,87 tỷ USD và vượt dệt may trở thành nhóm hàng xuất khẩu lớn thứ 2 cả nước (dệt máy đứng thứ 3 với 24,744 tỷ USD). Đây là điều gây không ít ngạc nhiên vì cùng kỳ năm ngoái, khoảng cách giữa 2 nhóm hàng này còn rất lớn lên đến hơn 4,5 tỷ USD.

Ngoài 3 nhóm hàng trên, hoạt động xuất khẩu đến 15/12 cũng ghi nhận thông tin đáng chú ý khác khi hàng loạt nhóm hàng chủ lực có kim ngạch vượt kết quả của cả năm 2016 như thủy sản đạt 7,955 tỷ USD, vượt cả năm ngoái hơn 900 triệu USD; rau quả đạt 3,346 tỷ USD, vượt gần 890 triệu USD; hạt điều đạt 3,363 tỷ USD vượt hơn 500 triệu USD…

Như vậy, dù chưa kết thúc năm nhưng đến thời điểm này có thể khẳng định năm 2017 nhiều nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước đã thiết lập được những kỷ lục mới ấn tượng về trị giá kim ngạch.

Với tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu đến 15/12 đạt 405,3 tỷ USD và trị giá trung bình đạt trên dưới 20 tỷ USD/nửa tháng, nhiều khả năng tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu nhập khẩu năm 2017 sẽ vượt 420 tỷ USD.

Thái Bình

SẢN PHẨM XUẤT KHẨU LÀ TÀI NGUYÊN, KHOÁNG SẢN CHƯA CHẾ BIẾN KHÔNG CHỊU THUẾ GTGT

(HQ Online)- Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 146/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 và Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 về hướng dẫn thi hành các luật về thuế.

Tài nguyên, khoáng sản, thuế GTGT
Quy định mới về thuế giá trị gia tăng. Ảnh: Internet

Cụ thể, Nghị định số 146/2017/NĐ-CP sửa đổi quy định về đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) trường hợp sản phẩm XK là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác.

Ngoài ra, đối tượng không chịu thuế GTGT còn có sản phẩm XK là hàng hóa được chế biến trực tiếp từ nguyên liệu chính là tài nguyên, khoáng sản có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản xuất sản phẩm trở lên, trừ các trường hợp sau:

Sản phẩm XK được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản do cơ sở kinh doanh trực tiếp khai thác và chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm XK (quy trình chế biến khép kín hoặc thành lập phân xưởng, nhà máy chế biến theo từng công đoạn) thì sản phẩm XK này thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 12 Luật thuế GTGT.

Sản phẩm XK được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản do cơ sở kinh doanh mua về chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm XK (quy trình chế biến khép kín hoặc thành lập phân xưởng, nhà máy chế biến theo từng công đoạn) thì sản phẩm XK này thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 12 Luật thuế GTGT.

Sản phẩm XK được chế biến từ nguyên liệu chính không phải là tài nguyên, khoáng sản (tài nguyên, khoáng sản đã chế biến thành sản phẩm khác) do cơ sở kinh doanh mua về chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến thành sản phẩm XK thì sản phẩm XK này thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 12 Luật thuế GTGT

Sửa quy định về hoàn thuế GTGT

Bên cạnh đó, Nghị định số 146/2017/NĐ-CP của sửa đổi, bổ sung quy định về hoàn thuế GTGT.

Cụ thể, cơ sở kinh doanh trong tháng (đối với trường hợp kê khai theo tháng), quý (đối với trường hợp kê khai theo quý) có hàng hóa, dịch vụ XK bao gồm cả trường hợp: Hàng hóa nhập khẩu sau đó XK vào khu phi thuế quan; hàng hóa nhập khẩu sau đó XK ra nước ngoài, có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT theo tháng, quý; trường hợp trong tháng, quý số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ chưa đủ 300 triệu đồng thì được khấu trừ vào tháng, quý tiếp theo; trường hợp vừa có hàng hóa, dịch vụ XK, vừa có hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ nội địa nếu sau khi bù trừ với số thuế phải nộp, số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ của hàng hóa, dịch vụ XK còn lại từ 300 triệu đồng trở lên thì cơ sở kinh doanh được hoàn thuế.

Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng số thuế GTGT đầu vào sử dụng cho sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ XK, trường hợp không hạch toán riêng được thì số thuế GTGT đầu vào xác định theo tỷ lệ giữa doanh thu của hàng hóa, dịch vụ XK trên tổng doanh thu hàng hóa, dịch vụ của các kỳ khai thuế GTGT tính từ kỳ khai thuế tiếp theo kỳ hoàn thuế liền trước đến kỳ đề nghị hoàn thuế hiện tại.

Cơ sở kinh doanh không được hoàn thuế GTGT đối với trường hợp: Hàng hóa nhập khẩu sau đó XK mà hàng hóa XK đó không thực hiện việc XK tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan; hàng hóa XK không thực hiện việc XK tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của pháp luật về hải quan

Cơ quan thuế thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với người nộp thuế sản xuất hàng hóa XK không bị xử lý đối với hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, trốn thuế, gian lận thuế, gian lận thương mại trong thời gian hai năm liên tục; người nộp thuế không thuộc đối tượng rủi ro cao theo quy định của Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Hương Dịu

MÁY MÓC, THIẾT BỊ VÀO NHÓM HÀNG XUẤT KHẨU 10 TỶ USD

(HQ Online)- Đến nay, có 5 nhóm hàng đạt trị giá kim ngạch từ 10 tỷ USD, tăng thêm một nhóm so với cùng kỳ 2016.
Cơ cấu tỉ lệ kim ngạch 5 nhóm hàng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước tính đến 15/11. Biểu đồ: T.Bình.

Theo Tổng cục Hải quan, đến 15/11 có thêm nhóm hàng mới góp mặt là máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng với trị giá kim ngạch đạt xấp xỉ 11 tỷ USD. Trị giá này tăng thêm 2,444 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2016 (tương đương tăng thêm 28,56%) và giúp nhóm hàng này lần đầu tiên góp mặt vào nhóm xuất khẩu từ 10 tỷ USD trở lên tính đến 15/11.

Cũng theo Tổng cục Hải quan, xét về thị trường (tính hết tháng 10), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng được xuất khẩu chủ yếu đến các thị trường: Hoa kỳ với 2,01 tỷ USD, tăng 16,8%; Nhật Bản với 1,41 tỷ USD, tăng 10%; Liên minh châu Âu- EU (với 28 thị trường) với 1,49 tỷ USD, tăng 43,7% so với cùng kỳ năm trước…

Ngoài máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng, đến 15/11, còn 4 nhóm hàng đạt trị giá kim ngạch trên 10 tỷ USD là: Điện thoại và linh kiện đạt 38,953 tỷ USD; dệt may đạt 22,436 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 22,352 tỷ USD; giày dép đạt 12,46 tỷ USD.

Một tín hiệu tích cực là cả 5 nhóm hàng “10 tỷ USD” đều duy trì được sự tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2016 và đóng góp quan trọng vào kết quả xuất khẩu chung của cả nước. Trong đó 2 nhóm hàng liên quan đến lĩnh vực điện tử là điện thoại và máy tính có mức tăng trưởng đến 2 con số với tốc độ lần lượt là 30,38% và 38,6%.

Với tổng trị giá kim ngạch đạt 107,201 tỷ USD, 5 nhóm hàng trên chiếm đến 58,3% tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Thái Bình
Bao Cong thuong

XUẤT KHẨU TÔM TIẾP TỤC TĂNG TRƯỞNG

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu (XK) thủy sản Việt Nam (Vasep) vừa công bố, tính tới tháng 8/2017, giá trị XK tôm Việt Nam đạt 2,3 tỷ USD, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm 2016.

XK tôm tăng trưởng mạnh trong những tháng đầu năm

Trong cơ cấu sản phẩm tôm XK của Việt Nam, tôm chân trắng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 64,2%, đạt 1,2 tỷ USD; tôm sú chiếm 24,5%, đạt 605,9 triệu USD và tôm biển 11,2%, đạt khoảng gần 500 triệu USD. Top 10 thị trường nhập khẩu (NK) tôm chính của Việt Nam gồm EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Canada, Australia, ASEAN, Đài Loan và Thụy Sỹ. Ngoại trừ Mỹ, XK tôm sang tất cả các thị trường còn lại đều tăng trưởng tốt.

8 tháng đầu năm nay, EU vươn lên trở thành thị trường lớn nhất của con tôm Việt. Giá trị XK tôm sang EU trong giai đoạn này đạt 483,6 triệu USD; tăng 30% so với cùng kỳ năm 2016. Trong khối EU, XK sang 3 thị trường NK lớn nhất của tôm Việt Nam (Anh, Hà Lan, Bỉ) đều tăng trưởng ở mức 2 con số, lần lượt đạt 46,5%; 47,8% và 34,1%. Giá trị XK tôm Việt Nam sang EU tính tới hiện tại khá tích cực do người tiêu dùng EU ưa chuộng các sản phẩm thủy sản giá trị gia tăng tiện lợi và tăng NK để phục vụ nhu cầu các lễ hội cuối năm. Đây là tín hiệu tốt, tạo đà tăng trưởng mạnh hơn cho XK tôm sang thị trường này những tháng cuối năm khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) chuẩn bị có hiệu lực.

Để tận dụng cơ hội đẩy mạnh XK tôm sang thị trường EU, Vasep cho rằng, các doanh nghiệp cần bảo đảm tuân thủ mọi yêu cầu về các biện pháp kiểm dịch động thực vật của EU cũng như nên thực hiện các yêu cầu kỹ thuật, đóng gói, ghi nhãn… Doanh nghiệp cũng cần chủ động đổi mới, sáng tạo, tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng sản phẩm và xây dựng kế hoạch phù hợp nhằm nâng cao năng lực để đối phó với thách thức.

Từ vị trí thứ nhất, Mỹ đã tụt xuống vị trí thị trường thứ tư của tôm Việt Nam trong 8 tháng đầu năm nay. Giá trị XK tôm sang Mỹ đạt gần 416 triệu USD, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm 2016. XK tôm sang Mỹcó chiều hướng đi xuống do tác động của việc Bộ Thương mại Mỹ (DOC) tăng thuế chống bán phá giá trong quyết định sơ bộ của đợt xem xét hành chính lần thứ 11 (POR11), đồng USD sụt giá do tác động từ các chính sách mới liên quan tới bảo hộ sản xuất trong nước của Tổng thống Donald Trump.

Bộ Công Thương lý giải thêm, sự phục hồi nguồn cung của thị trường Ấn Độ- đối thủ cạnh tranh chính của tôm Việt Nam trên thị trường Mỹ sau một thời gian bị dịch bệnh đã làm giảm thị phần của tôm Việt Nam vốn kém cạnh tranh hơn về giá do chịu thuế chống bán phá cao hơn. Bên cạnh đó, trong bối cảnh XK tôm sang Mỹ khó khăn, các DN đã chủ động chuyển hướng XK sang các thị trường khác dễ tính hơn thuộc khu vực châu Á và EU nên kim ngạch XK sang Mỹ giảm hơn thời gian trước. Tuy vậy, do nhu cầu tiêu thụ tôm của thị trường Mỹ được dự báo sẽ tăng vào nửa cuối năm nay nên dự kiến, kim ngạch XK tôm Việt Nam sang Mỹ trong giai đoạn này sẽ tăng so với cùng kỳ năm ngoái, dù tốc độ tăng trưởng không cao.

Bộ Công Thương cũng khuyến cáo, hiện tại các DN XK tôm đã bước đầu có sự chuyển hướng sang một số thị trường khác ít khó khăn hơn để XK được với mức giá tốt hơn, tuy nhiên, Mỹ vẫn là thị trường có nhiều tiềm năng phát triển do vậy, về lâu dài, cần có giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao chất lượng, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn, về an toàn thực phẩm nhằm giữ vững và mở rộng thị phần XK tại thị trường này.

Với nhu cầu tăng trưởng tốt từ các thị trường châu Á (Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc…) và EU, DN cũng có ý thức nâng cao năng suất chế biến, đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm tinh chế, Vasep dự báo, XK tôm Việt Nam năm 2017 dự kiến đạt khoảng 3,4 tỷ; tăng khoảng 6% so với năm 2016.

Phương Lan

Nguồn: http://baocongthuong.com.vn/

XUẤT KHẨU CÁ TRA SANG MỸ DỰ KIẾN ỔN ĐỊNH ĐẾN THÁNG 3/2018

(HQ Online)- Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết: Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) sẽ rà soát bản câu hỏi đánh giá tương đương (SRT) cho sản phẩm cá họ Siluriformes và các tài liệu khác do các quốc gia đệ trình, và sẽ xem xét tiến độ thanh tra ở cấp quốc gia trước ngày 1/3/2018.

Chế biến cá tra xuất khẩu.

Quy định của USDA về đánh giá tương đương cho sản phẩm cá họ Siluriformes đồng nghĩa với việc các nước đang tìm cách tiếp tục XK các sản phẩm cá tra sang Mỹ phải nộp tài liệu chứng minh sản phẩm cá tra được sản xuất, chế biến tại các quốc gia đó tương đương với hệ thống của Mỹ trước ngày 1/9/2017.

Theo các nguồn tin, doanh thu cá tra trong giai đoạn từ 1/9/2017 đến trước tháng 3/2018 dự kiến vẫn ổn định, vì đây là khoảng thời gian mà USDA rà soát tất cả các tài liệu đệ trình.

Trong khi đó, 100% cá tra XK của Việt Nam đã được thanh tra tại biên giới Mỹ, kể từ ngày 2/8/2017.

Ông Don Kelley, giám đốc phụ trách mua sắm của công ty NK Mỹ Western Edge Seafood, cho rằng vào tháng 8/2017, giá cá tra trên thị trường đang ở mức 2,05 – 2,15 USD/pao.

Mức giá tăng là do các chi phí liên quan đến USDA chứ không phải là chi phí nguyên liệu trong khi nguồn cung cá tra trong thời gian này giảm. 

Nếu quyết định của USDA được thực hiện từ tháng 3/2018, điều đó có nghĩa là thuế quan đối với một số công ty sẽ tăng. Tuy vậy, ngành cá tra Việt Nam vẫn còn hy vọng đảo ngược lại tình thế.

Mỹ hiện vẫn là thị trường xuất khẩu cá tra lớn nhất, chiếm 22% thị phần xuất khẩu cá tra Việt Nam và cũng là thị trường có giá bán cao nhất. Việc Mỹ đưa ra các phán quyết bất lợi, nếu có, sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tiêu thụ cá tra Việt Nam tại thị trường này.

Lê Thu

CẢNH BÁO VI PHẠM TRONG LĨNH VỰC GIA CÔNG, SẢN XUẤT XUẤT KHẨU

(HQ Online)- Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc có nhiều DN gia công, sản xuất xuất khẩu (SXXK) đang giúp giải quyết việc làm cho hàng trăm nghìn lao động, do đó, loại hình DN này cũng nhận được nhiều chính sách ưu đãi.

Nhiều DN dệt may có hoạt động gia công, SXXK. Ảnh: T.Bình.

Tuy nhiên, có một thực tế là không ít DN gia công, SXXK đã lợi dụng các cơ chế ưu đãi để gian lận, trốn thuế. Qua quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước về hải quan, lực lượng Kiểm tra sau thông quan (KTSTQ) đã phát hiện nhiều trường hợp vi phạm, thu nộp bổ sung về ngân sách nhà nước hàng trăm tỷ đồng.

Lợi dụng ưu đãi

Những năm gần đây số lượng DN hoạt động trong lĩnh vực gia công, SXXK không ngừng tăng lên. Theo thông tin từ Cục KTSTQ (Tổng cục Hải quan), nếu như năm 2014, cả nước có khoảng 4.600 DN thì đến cuối năm 2016 con số này tăng lên khoảng 8.000 DN. Các DN gia công, SXXK chủ yếu hoạt động sản xuất trong lĩnh vực dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ…, tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố: Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Long An, TP.HCM…

Thực tế cho thấy, các DN gia công, SXXK đang đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế đất nước, nhất là lĩnh vực XNK, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Đề cao vai trò của DN gia công, SXXK đối với nền kinh tế và trong bối cảnh cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho hoạt động của giới DN, trong đó có lĩnh vực gia công, SXXK thời gian qua, Việt Nam đã ban hành chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho DN hoạt động trong lĩnh vực này. Nổi bật là việc Luật Hải quan đưa ra các quy định tạo điều kiện thông thoáng về mặt thủ tục hải quan đối với loại hình gia công, SXXK. Đồng thời Luật Thuế XNK đã đưa ra quy định miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư nhập SXXK thay vi ân hạn thuế 275 ngày như trước đây.

Có thể nói các chính sách ưu đãi của nhà nước đã tạo ra môi trường thuận lợi để DN gia công, SXXK phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, góp phần nâng cao kim ngạch XNK của cả nước và giải quyết ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.

Tuy nhiên, theo Cục KTSTQ, bên cạnh các DN chấp hành tốt pháp luật, có không ít DN gia công, SXXK lợi dụng các chính sách ưu đãi về thuế để gian lận trốn thuế gây thất thu NSNN, tạo ra sự bất bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các DN.

Biến nguyên liệu thành phế liệu!

Trước thực trạng nêu trên, những năm vừa qua, thực hiện chỉ đạo của Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan về tăng cường công tác quản lý nhà nước về hải quan, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ thu NSNN, Cục KTSTQ và toàn lực lượng đã tập trung kiểm tra đối với các DN, loại hình mức độ rủi ro, nguy cơ vi phạm cao, trong đó có lĩnh vực gia công, SXXK. Qua kiểm tra của Cục KTSTQ và các Chi cục KTSTQ của các cục hải quan địa phương đã phát hiện nhiều trường hợp vi phạm và tiến hành ấn định thuế và thu nộp về ngân sách hàng trăm tỷ đồng.

Theo Cục KTSTQ, từ đầu năm 2017 đến đầu tháng 6, chỉ tính riêng loại hình gia công, SXXK, lực lượng KTSTQ toàn Ngành đã ấn định thuế tổng số tiền lên đến gần 187 tỷ đồng, các DN đã chấp hành và nộp vào ngân sách số tiền 180 tỷ đồng. Trong đó, riêng Cục KTSTQ thực hiện ấn định tổng số tiền gần 88 tỷ đồng và toàn bộ số tiền này đã được thu nộp vào NSNN. Bên cạnh đó, một số Chi cục KTSTQ của các cục hải quan địa phương có số thu lớn từ “hậu kiểm” ở lĩnh vực gia công, SXXK có thể kể đến như Chi cục KTSTQ Bắc Ninh (33,7 tỷ đồng); Chi cục KTSTQ Hải Phòng 21,5 tỷ đồng; Chi cục KTSTQ Đồng Nai 12,2 tỷ đồng; Chi cục KTSTQ TP.HCM 8,6 tỷ đồng; Chi cục KTSTQ Hà Nội gần 8,4 tỷ đồng; Chi cục KTSTQ Bình Dương hơn 7,3 tỷ đồng…

Đại diện Cục KTSTQ cho biết, các vi phạm có tính điển hình đối với DN gia công, SXXK là vấn đề định mức hoặc sử dụng nguyên liệu, vật tư sai mục đích. Định mức là cơ sở lập hồ sơ hoàn thuế, xét không thu thuế, miễn thuế nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để gia công, sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nhưng qua công tác KTSTQ cơ quan Hải quan phát hiện nhiều DN có định mức đăng ký không đúng với định mức thực tế sản xuất. Đó là việc định mức quyết toán cao hơn định mức thực tế sản xuất; đưa vào định mức quyết toán những nguyên liệu, vật tư nhập gia công, SXXK không thực sự tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm; định mức quyết toán xác định sai nguồn gốc nguyên liệu, vật tư (thực tế sử dụng nguyên liệu, vật tư mua trong nước nhưng quyết toán là nguyên liệu, vật tư nhập SXXK, một hình thức đổi tráo nguyên liệu, vật tư-PV).

Một sai phạm khác phổ biến được cơ quan Hải quan chỉ ra là sử dụng nguyên liệu, vật tư sai mục đích khai báo (nguyên liệu, vật tư nhập gia công, SXXK nhưng chuyển tiêu thụ nội địa hoặc sản xuất sản phẩm tiêu thụ nội địa không khai báo cơ quan Hải quan). Thủ đoạn được DN sử dụng để gian lận qua hình thức này là: Bán nguyên liệu, vật tư dưới hình thức bán phế liệu; khai báo cấp nguyên liệu, vật tư vào sản xuất để sản xuất sản phẩm nhưng thực chất là xuất bán nguyên liệu, vật tư cho đơn vị khác.

Đáng chú ý, lực lượng KTSTQ phát hiện cả trường hợp DN bán sản phẩm hoàn chỉnh dưới hình thức bán phế phẩm hoặc để ngoài sổ kế toán doanh thu bán nguyên liệu, vật tư nhập gia công, SXXK… 

Theo Cục KTSTQ, qua quá trình kiểm tra thực tế, bên cạnh những DN vi phạm có chủ đích thì vẫn có không ít DN vi phạm do: Không có sự kết nối chặt chẽ giữa bộ phận XNK, kế toán và sản xuất nên không có sự kiểm tra, đối chiếu giữa khai báo hải quan và thực tế sản xuất dẫn đến không tự phát hiện được sai phạm.

Hay DN chưa hiểu biết thấu đáo về pháp luật hải quan đối với loại hình gia công, SXXK; hạn chế về năng lực của cán bộ XNK; công ty thuê đại lý hải quan làm các thủ tục thông quan và quyết toán thuế, tuy nhiên không có sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động khai báo của đại lý…

Thái Bình

XUẤT KHẨU THỦY SẢN VỮNG VÀNG MỤC TIÊU 8 TỶ USD

(HQ Online)- Với đà XK thuận lợi, dự kiến kim ngạch XK thủy sản cả năm sẽ đạt khoảng 8 tỷ USD, tăng hơn 1 tỷ USD so với năm 2016.

Năm nay thời tiết khá thuận lợi cho việc nuôi tôm, tạo nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ chế biến, XK. Ảnh: N.Thanh.

Tăng hơn 18% so với cùng kỳ

Suốt từ đầu năm đến nay, XK thủy sản luôn ở đà tăng trưởng đi lên so với các tháng cùng kỳ năm trước. Theo Bộ NN&PTNT, lũy kế 8 tháng đầu năm, XK thủy sản ước đạt 5,13 tỷ USD, tăng hơn 18% so với cùng kỳ năm 2016. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường NK hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 7 tháng đầu năm, chiếm 55,6% tổng giá trị XK. 7 tháng qua, các thị trường có giá trị XK thủy sản tăng mạnh điển hình phải kể tới là Trung Quốc (trên 57%), Nhật Bản (30,8%), Anh (trên 30%), Hàn Quốc (28,8%)…

Theo đại diện Bộ NN&PTNT: Năm nay tình hình nuôi trồng thủy sản, đặc biệt đối với hai mặt hàng thủy sản chủ lực là cá tra và tôm có những tín hiệu khá tích cực, tạo nguồn cung ổn định cho XK. Cụ thể, đối với mặt hàng cá tra, các ao nuôi cá tra được quản lý và quy hoạch chặt chẽ. Từ đầu năm đến nay, giá cá tra có xu hướng tăng nên người nuôi dần ổn định sản xuất. Diện tích nuôi cá tra hiện có đạt 4.746 ha, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước. Vào vụ thu hoạch chính, sản lượng thu hoạch 8 tháng của các tỉnh ĐBSCL tăng trưởng khá, đạt trên 815 nghìn tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, Đồng Tháp là tỉnh có sản lượng thu hoạch lớn nhất đạt trên 303 nghìn tấn, tăng tới 25,4% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với mặt hàng tôm, nhìn chung thời tiết năm nay thuận lợi hơn rất nhiều so với năm 2016 nên nuôi tôm nước lợ vùng ĐBSCL tăng khá. Cụ thể, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng 8 tháng ước đạt 63,6 nghìn ha, tăng trên 15% so với cùng kỳ năm trước với sản lượng ước đạt hơn 165 nghìn tấn, tăng mạnh gần 34%. Với tôm sú, sản lượng thu hoạch trong 8 tháng đầu năm ước đạt hơn 150 nghìn tấn, tăng 8,1%. Đặc biệt, điểm đáng chú ý là, giá tôm nguyên liệu hiện vẫn duy trì ở mức ổn định và có xu hướng tăng, tạo thêm động lực cho người nuôi trồng.

Cả năm xuất khẩu đạt 8 tỷ USD

Thời gian vừa qua, việc Hoa Kỳ quyết định kiểm tra 100% lô hàng cá tra của Việt Nam XK vào thị trường này theo chương trình thanh tra cá da trơn từ ngày 2/8 thay vì kế hoạch từ ngày 1/9 trước đó đã đặt ra những lo ngại về tình hình XK cá tra nói riêng và XK thủy sản nói chung.

Liên quan tới vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Oai, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho biết: Thông thường mỗi năm, giá trị XK cá tra vào Hoa Kỳ chiếm khoảng trên 21% tổng giá trị XK mặt hàng này. Khi Hoa Kỳ thực hiện kiểm tra 100% lô hàng cá tra XK từ Việt Nam, hàng được đưa về kho do phía Hoa Kỳ yêu cầu và phía Hoa Kỳ sẽ lấy mẫu khoảng 3% trên tổng số hàng đem đi kiểm tra. Hiện nay, Việt Nam chỉ có 3 DN XK cá tra vào Hoa Kỳ. Các DN vừa tập trung sản xuất tự chủ nguồn cá tra, vừa mua thêm nguyên liệu từ các hộ nuôi trồng khác. Ngoài sự chuẩn bị của các DN, Bộ NN&PTNT cũng ban hành Chương trình kiểm soát cá da trơn XK sang thị trường Hoa Kỳ nhằm kiểm soát tốt hơn vấn đề này. “Vì vậy, mặc dù phía Hoa Kỳ áp dụng kiểm tra 100% lô hàng khá gắt gao, song động thái này không gây ảnh hưởng nhiều tới XK cá tra nói riêng và XK thủy sản nói chung trong cả năm nay. Dự kiến, XK cá tra cả năm đạt khoảng 1,7 tỷ USD và XK thủy sản tự tin đạt mức 8 tỷ USD, tăng tới hơn 1 tỷ USD so với năm 2016”, ông Oai nhấn mạnh.

Trên thực tế, thời gian qua cùng với đà tăng trưởng của XK, kim ngạch NK thủy sản cũng tăng khá mạnh. Cụ thể, báo cáo của Bộ NN&PTNT cho thấy, 8 tháng đầu năm, giá trị NK thủy sản đạt hơn 900 triệu USD, tăng trên 31% so với cùng kỳ năm 2016. Thị trường NK thủy sản lớn nhất trong 7 tháng đầu năm là Ấn Độ (chiếm 26,4% thị phần), tiếp ngay sau đó là Trung Quốc với 8,8% thị phần. Trước một số ý kiến băn khoăn đặt ra về việc thủy sản XK tăng song cũng phụ thuộc nguồn nguyên liệu NK, ông Oai cho biết thêm: Việt Nam hiện đang XK thủy sản tới hơn 100 quốc gia. Nguồn nguyên liệu trong nước cơ bản đáp ứng nhu cầu chế biến hàng XK. Tuy nhiên, khi dư thừa công suất, việc NK thêm nguyên liệu chế biến, XK, góp phần tăng thêm giá trị gia tăng là điều đáng mừng, không có gì đáng lo ngại.

Về những nhiệm vụ trọng tâm nhằm phát triển bền vững ngành thủy sản trong thời gian tới, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường chỉ đạo, Tổng cục Thủy sản phải tiếp tục hoàn thiện Luật Thủy sản theo tinh thần đảm bảo chất lượng và tiến độ để trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV. Bên cạnh đó, Tổng cục Thủy sản cũng phải tích cực phối hợp với Cục Thú y, Cục Quản lý chất lượng Nông, lâm sản và Thủy sản tổ chức hội nghị quán triệt 6 tỉnh nuôi tôm trọng điểm trên cả nước về vấn đề kháng sinh và tạp chất.

Thanh Nguyễn

XUẤT KHẨU NÔNG, LÂM, THỦY SẢN KHẢ QUAN THU VỀ 33 TỶ USD

(HQ Online)- Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn, những tháng cuối năm nay, nếu không có những bất thường lớn về thời tiết, ngành nông nghiệp sẽ về đích thành công với mức tăng trưởng ngành 3,05% và giá trị XK nông, lâm, thủy sản đạt 33 tỷ USD. 

Hết tháng 8, XK nông, lâm, thủy sản đã đạt trên 23 tỷ USD. Ảnh: Internet

Tăng trưởng toàn ngành nông nghiệp những tháng cuối năm được đánh giá phụ thuộc rất lớn vào mức tăng trưởng của lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Ở lĩnh vực chăn nuôi, trong tháng 8, giá trứng gia cầm tiếp tục tăng, giá thịt lợn giữ ở mức thấp, nên người dân vẫn thận trọng trong việc đầu tư tái đàn. Hiện tại, hầu như chỉ các trang trại, gia trại chăn nuôi lợn quy mô lớn bắt đầu tái đàn nhưng số lượng hạn chế. Ước tính hết tháng 8, đàn lợn cả nước giảm 4%, đàn trâu giảm 0,5%, đàn bò tăng 2,8%, đàn gia cầm tăng khoảng 5,1% so với cùng kỳ năm 2016. 

Tuy nhiên, theo đánh giá của Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), với nỗ lực tái đàn chăn nuôi lợn phục vụ nhu cầu Tết và sự tăng mạnh trong sản xuất trứng, đạt mức 11 tỷ quả (tăng gần 2 tỷ quả so với năm trước), dự báo năm nay lĩnh vực chăn nuôi sẽ đảm bảo mức tăng trưởng 3%. 

Đối với lĩnh vực trồng trọt, do những tháng đầu năm thời tiết diễn biến phức tạp nên sản lượng vụ Đông Xuân giảm 300.000 tấn lúa; bù lại vụ Hè Thu ở các tỉnh phía Nam đã thu hoạch 1.085 nghìn ha (chiếm 56,2%) cho năng suất tăng hơn so với vụ trước là 2 tạ/ha. 

Đại diện Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) đánh giá: Với diện tích lúa ở miền Bắc đang phát triển khá tốt và kế hoạch sản xuất vụ Thu Đông ở ĐBSCL, sản lượng tăng khoảng 250.000 – 300.000 tấn so với cùng kỳ năm trước. Tính chung, sản lượng lúa cả năm ước đạt 44,1 triệu tấn.

Báo cáo của Bộ NN&PTNT cho thấy tính tới hết tháng 8, tổng kim ngạch XK nông, lâm, thủy sản ước đạt 23,7 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong các lĩnh vực sản xuất, thủy sản đang có những tín hiệu tăng trưởng và XK khả quan. Giá trị XK thủy sản ước đạt 5,1 tỷ USD, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Thanh Nguyễn
Bao Cong thuong

MỤC TIÊU XUẤT KHẨU NÔNG LÂM THỦY SẢN ĐẠT 35 TỶ USD NĂM 2018

Với những kết quả khả quan trong năm 2017, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đặt mục tiêu tăng trưởng của ngành NN&PTNT năm 2018 là 3% và kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 35 tỷ USD. Đây là thông tin được đưa ra tại buổi Họp báo thường kỳ tháng 9 do Bộ NN&PTNT tổ chức chiều nay (6/9), tại Hà Nội.  

Ảnh minh họa

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ nhưng sức sản xuất của ngành nông nghiệp vẫn tiếp tục bứt phá, thị trường tiêu thụ mở rộng hứa hẹn một năm bội thu về xuất khẩu nông lâm và thủy sản. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 8 tháng ước đạt 23,7 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong các lĩnh vực sản xuất, thủy sản đang có những tín hiệu tăng trưởng và xuất khẩu khả quan. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 5,1 tỷ USD, tăng 18,1%. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm nay sẽ đạt 8 tỷ USD, tăng hơn 1 tỷ USD so với năm 2016.

Trong những tháng cuối năm 2017, tăng trưởng của ngành NN&PTNT được đánh giá phụ thuộc rất lớn vào mức tăng trưởng của lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Tháng 8/2017, giá trứng gia cầm tiếp tục tăng, giá thịt lợn giữ ở mức thấp, nên người dân vẫn thận trọng trong việc đầu tư tái đàn; hiện tại hầu như chỉ các trang trại, gia trại chăn nuôi lợn quy mô lớn bắt đầu tái đàn, nhưng số lượng hạn chế. Ước hết tháng 8, đàn lợn cả nước giảm 4%, đàn trâu giảm 0,5%, đàn bò tăng 2,8%, đàn gia cầm tăng khoảng 5,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Theo đánh giá của Cục Chăn nuôi, với nỗ lực tái đàn chăn nuôi lợn phục vụ nhu cầu Tết và sự tăng mạnh trong sản xuất trứng, đạt mức 11 tỷ quả (tăng gần 2 tỷ quả so với năm trước), dự báo năm nay lĩnh vực chăn nuôi sẽ đảm bảo mức tăng trưởng 3%. Bộ trưởng lưu ý, Cục Chăn nuôi tập trung nguồn lực để xây dựng Luật Chăn nuôi đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ và chất lượng; xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển chăn nuôi, đồng thời xúc tiến việc xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi.

Đối với lĩnh vực trồng trọt, do những tháng đầu năm thời tiết diễn biến phức tạp nên sản lượng vụ đông xuân giảm 300.000 tấn lúa; bù lại vụ hè thu ở các tỉnh phía Nam đã thu hoạch 1.085 nghìn ha (chiếm 56,2%) cho năng suất tăng hơn so với vụ trước là 2 tạ/ha, tính ra vụ này sản lượng tăng khoảng 400.000 tấn lúa. Theo đánh giá của Cục Trồng trọt, với diện tích lúa ở miền Bắc đang phát triển khá tốt và kế hoạch sản xuất vụ thu đông ở ĐBSCL, sản lượng dự kiến tăng khoảng 250.000-300.000 tấn so với cùng kỳ năm trước. Tính chung, sản lượng lúa cả năm ước đạt 44,1 triệu tấn. Tuy nhiên, mối lo lớn nhất hiện nay là tình hình dịch bệnh trên lúa (như bệnh rầy nâu, rầy lưng trắng, bạc lá, khô vằn…) và nguy cơ ảnh hưởng của mưa bão ở phía Bắc và lũ ở ĐBSCL. Chính vì vậy, Bộ trưởng chỉ đạo Tổng cục Thủy lợi, Cục Trồng trọt, Cục BVTV nắm chắc tình hình và có biện pháp ứng phó với mưa bão, lũ và dịch bệnh, đảm bảo an toàn cho sản xuất lúa.

Với những kết quả khả quan trong năm 2017, Bộ NN&PTNT đặt mục tiêu, kế hoạch tăng trưởng của ngành NN&PTNT năm 2018 là 3% và kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 35 tỷ USD.

Liên quan đến môi trường biển miền Trung, theo Tổng cục Thủy sản, môi trường biển 4 tỉnh miền Trung đã phục hồi trở lại, nhiều ngư trường ruốc xuất hiện dày đặc; các nghề vây, lưới mành, pha xúc đạt năng suất ổn định. Tính đến nay, tiến độ chi trả bồi thường sự cố môi trường biển đạt 94,3%; hơn 5% còn lại đang chờ tàu khai thác về để tiến hành bồi thường. Tổng cục cũng tăng cường công tác phòng ngừa, ngăn chặn và xóa bỏ các hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp theo thông lệ quốc tế.

Nguyễn Hạnh

Nguồn: http://baocongthuong.com.vn/